Vẫn có em bên đời
Ngộ thương,
1. Kinh Agama thuộc về hữu bộ
2. Không phải tất cả Kinh Agama là thuộc về hữu bộ
3. Khảo cổ tìm thấy 2 bài Kinh ở Đông Turkestan là Kinh ưu bà ly.. chữ sankrit.
Khi so sánh với bản dịch chữ Hán thì tương ưng với nhau.
4. Trung A Hàm hán dịch do Sanghadeva
5. Việt dịch của Tuệ Sỹ
6. TAH có 20 phẩm gồm 222 Kinh
7. Tìm đọc các bài Kinh Trung a hàm mà mình đã biết ở TBK!
--
Khái quát về nguồn gốc kinh A-hàmThích Nguyên Hiền
Từ
ngữ A-hàm (Agama) nói theo nghĩa rộng là chỉ cho những giáo
thuyết được truyền thừa, hoặc các Thánh điển do sưu
tập các giáo thuyết ấy tạo thành. Do vậy, thông thường
nói Kinh A-hàm tức chỉ cho 4 bộ hoặc 5 bộ Thánh điển
của Phật giáo Nguyên thủy.
Phật giáo Nguyên thủy
là thời đại giáo pháp còn nhất vị, giáo đoàn còn
thống nhất, chưa phân chia thành bộ phái, tức trong khoảng
thời gian từ khi Đức Phật bắt đầu thành lập giáo đoàn,
hoằng dương giáo lý cho đến 100 năm (hoặc 200 năm) sau khi
Phật nhập diệt. Kinh điển trong thời kỳ này bao hàm hình
thái nguyên thủy nhất của giáo thuyết Phật-đà. Đây là
cơ sở giáo lý căn bản của Phật giáo Đại thừa, Tiểu
thừa sau này.
Cuối thế kỷ XIX, các
học giả phương Tây bắt đầu nghiên cứu các kinh điển Pàli,
lấy Phật giáo phương Nam làm chính. Trước đó, các học
giả Trung Quốc và Nhật Bản chẳng những không biết có
sự tồn tại của Thánh điển Pàli mà cũng chưa hiểu
rằng Thánh điển này giống với Kinh A-hàm, tức Kinh Phật
Hán dịch xưa nay được quen gọi là "Kinh Tiểu
Thừa". Vì thế, kể từ khi Kinh A-hàm bị phán thích là
kinh điển thuộc về Tam Tạng giáo của Tiểu thừa, có giáo
nghĩa thấp nhất trong "Ngũ thời Bát giáo" của Đại
sư Trí Khải đời Tùy cho đến nay thì giá trị Kinh A-hàm
bị các học giả và các nhà tôn giáo xưa nay coi thường.
Về tên gọi và thời
đại của Phật giáo Nguyên thủy, trong giới học giả có
nhiều ý kiến khác nhau. Đầu tiên, học giả người Anh là
Thomas William Rhys Davids (1843 - 1922) gọi là Early Buddhism. Sau
đó, một học giả người Nhật Bản là Kimura Taiken chính
thức dịch từ ngữ "Early Buddhism" là Phật Giáo
Nguyên Thủy (trong tác phẩm Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng
Luận, xuất bản năm 1924). Tiếng Anh của "Phật giáo
Nguyên thủy" đáng lẽ phải là "Primitive
Buddhism", nhưng vì từ Primitive ngoài các ý nghĩa: Đầu
tiên, trước nhất, nó còn bao hàm các nghĩa: Nguyên thủy,
Thời kỳ đầu chưa được khai hóa... Do đó dễ bị xem là
từ ngữ có hàm ý thấp kém, vì thế các học giả phương
Tây thường tránh dùng, mà sử dụng từ ngữ "Early
Buddhism".
Một học giả người
Nhật khác là ông Tỷ Kỳ Chánh Trị thì cho rằng nếu Early
Buddhism chỉ cho Phật giáo ở thời kỳ đầu tiên (tức
thời đại của Phật và các đệ tử của Ngài) thì đáng
lẽ phải dịch là "Phật giáo Căn bản" (Basic
Buddhism). Các học giả khác của Nhật Bản và Trung Quốc,
nổi tiếng như ngài Ấn Thuận... cũng đồng quan điểm trên.
Nói theo các văn hiến
hiện còn thì thời đại Phật giáo Căn bản, 4 bộ (hoặc 5
bộ) A-hàm chưa được kiết tập, cho nên nói một cách nghiêm
túc, do sự thiếu sót các văn hiến Phật giáo Căn bản,
nếu không tìm tòi trong các Thánh điển được tập đại
thành vào thời đại Phật giáo Nguyên Thủy thì không thể
nào mở ra con đường nghiên cứu Phật giáo Căn bản. Các
học giả Trung Quốc, Nhật Bản gần đây thường căn cứ vào
các tạng kinh bằng tiếng Pàli, tiếng Hán, tiếng Phạn và
tiếng Tây Tạng để nghiên cứu Phật giáo Căn bản. Còn các
học giả phương Tây do thiếu khả năng xem đọc tiếng Hán
nên phải nghiên cứu bằng tiếng Pàli, khiến cho kết quả
nghiên cứu có chỗ chênh lệch, nhưng nhờ sự trợ giúp
của Ngôn ngữ học, Khảo cổ học và Tư tưởng sử trên
tinh thần và phương pháp học thuật có khuynh hướng nghiên
cứu với thái độ phê phán, nên rất được xem trọng.
Bất luận Căn bản hay
Nguyên thủy, tư tưởng trọng tâm của giáo pháp Đức
Phật chính là học thuyết Duyên Khởi. Tư tưởng
"Nghiệp" và "Giải thoát" y cứ vào Áo Nghĩa
Thư của Ấn Độ, đồng thời sử dụng tư tưởng "Chúng
sinh bình đẳng" của Kỳ-na giáo và sự sáng tạo độc
đáo của việc cầu đạo chứng ngộ. Tất cả giáo pháp
của Đức Phật đều lấy luận thuyết Duyên Khởi làm tiêu
chuẩn, gồm 4 phần:
1- Ba pháp ấn (hoặc 4 pháp ấn).
2- Mười hai nhân duyên.
3- Bốn đế.
4- Đạo tám Chánh.
Ở Ấn Độ, tuy các tư
tưởng triết học đã thịnh hành rất sớm, nhưng tuyệt
nhiên không có luận thuyết Duyên Khởi, các tôn giáo hoặc
triết học khác trên thế giới cũng không có, nên Duyên
Khởi được xem như đặc trưng cơ bản của Phật giáo.
Từ nhận định cơ
bản trên, ta bắt đầu đi vào nghiên cứu Kinh A-hàm. Có
lẽ việc xác định vị trí, thời gian của một kinh điển
nào đó ra đời là cách tốt nhất để tránh lầm lạc,
chắp vá và thiên kiến.
Từ "A-hàm"
(Agama) được các học giả cận đại giải thích là: Lai trước,
Thú quy, Tri thức, Thánh ngôn, Thánh huấn tập, Kinh điển. Hán
dịch của từ Agama cũng rất nhiều: Pháp quy, Pháp bản, Pháp
tạng, Giáo pháp, Giáo phần, Chủng chủng thuyết, Vô tỷ pháp,
Truyền giáo, Tịnh giáo, Thú vô, Giáo, Truyền, Lai, Tạng
v.v...
Thiện Kiến Luật
Tỳ-Bà-Sa 2 thì cho A-hàm nghĩa là dung chứa, tụ tập. Nhưng
nghĩa này có thể là chỉ cho từ "Nikàya" trong
tiếng Pàli (nghĩa là tập hội, toản tập) chứ không phải
từ Agama.
Pháp Hoa Luận Sớ có nêu
lời giải thích của ngài Đạo An đời Đông Tấn rằng A-hàm
là "Thú vô", vì tất cả pháp đều hướng về pháp
"Không" cứu cánh. Còn ngài Tăng Triệu thì giải thích
A-hàm là Pháp quy. Thực ra, những lối giải thích trên đều
không đúng với chánh ý của A-hàm.
A-hàm thuộc về giáo
thuyết truyền thừa, được tập đại thành sau khi Đức
Phật nhập diệt. Đây là nội dung của Kinh Tạng (Phạn: Sùtrànta-pitaka)
trong 3 tạng, chia làm Tứ A-hàm hay Ngũ A-hàm.
"Tứ A-hàm" là
Trung A-hàm, Trường A-hàm, Tăng Nhất A-hàm và Tạp A-hàm
(hoặc Tương Ưng). Đây là từ ngữ được các kinh sau đây
đề cập đến: Kinh Bát-nê-hoàn quyển hạ, Hữu Bộ
Tỳ-nại-da Tạp Sự 39, Luận Đại Trí Độ, Luận Du-già-sư-địa
85, kinh Đại Bát-niết-bàn 13 (bản Bắc), Kinh Đại Thừa Đại
Tập Địa Tạng Thập Luân 2 v.v...
"Ngũ A-hàm" là
Trường A-hàm, Trung A-hàm, Tăng-thuật-đa (Tương Ưng), Ương-quật-đa-la
(Tăng Nhất) và Khuất-đà-ca (Tạp loại). Từ ngữ này được
ghi trong Thiện Kiến Luật Tỳ-bà-sa 1, Đại A-la-hán Nan-đề-mật-đa-la
Sở Pháp Trụ Ký v.v...
Luật Ngũ Phần 30,
Luật Ma-ha Tăng-kỳ 32, Luật Tứ Phần 5, Luận Phân Biệt Công
Đức 1 v.v... gọi Khuất-đa-ca A-hàm là Tạp Tạng trong 5
bộ A-hàm. Năm bộ này tương đương với 5 bộ kinh (Pãnca-Nikàya)
trong kinh Phật bằng tiếng Pàli.
Theo Tỳ-nại-da Tiểu
Phẩm (Vinaya-cùlavagga), Nhất Thiết Thiện Kiến (Samanta-pàsàdika
1) và bài tựa của Trường Bộ Kinh Chú (Sumangala-vilàsinĩ),
5 bộ kinh là: Digha-Nikàya, Majjhima-Nikàya, Samyutta-Nikàya,
Anguttara-Nikàya và Khuddaca-Nikàya, tương đương với 5 bộ:
Trường, Trung, Tương Ưng, Tăng Chi và Tiểu Bộ Kinh hiện
nay.
Về sự truyền thừa
của hệ A-hàm, theo bài tựa của Trường Bộ Kinh Chú, sau
khi kết tập lần thứ nhất, Trường Bộ Kinh do hệ thống
A-nan, Trung Bộ Kinh do hệ thống Xá-lợi-phất, Tương Ưng
Bộ Kinh do hệ thống Đại Ca-diếp, Tăng-chi Bộ Kinh do hệ
thống A-na-luật xếp loại mà truyền thừa riêng biệt nhau.
Theo Pháp Hoa Huyền Tán
1, Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương 4, Hoa Nghiêm Kinh
Sớ Sao Huyền Đàm 8 v.v..., cả 4 bộ A-hàm và Luật Ma-ha Tăng-kỳ
đều do Đại Chúng Bộ truyền. Còn theo Câu-Xá Luận Kê
Cổ quyển thượng thì Trung A-hàm và Tạp A-hàm do Tát-bà-đa
Bộ truyền, Tăng Nhất A-hàm do Đại Chúng Bộ truyền, Trường
A-hàm do Hóa Địa Bộ truyền, Biệt dịch Tạp A-hàm là do
Ẩm Quang Bộ truyền. Tóm lại, A-hàm là do mỗi bộ phái
tự truyền riêng, nhưng sau khi Đại thừa phát triển, kinh
điển A-hàm được xem là một tên khác của kinh điển
Tiểu thừa. Nhưng Luận Đại Trí Độ thì cho từ A-hàm cũng
chỉ chung cho Đại thừa, nên Kinh Bát-nê-hoàn 6 có từ ngữ
"Phương Đẳng A-hàm". Thuật ngữ Phương Đẳng A-hàm
này chỉ cho kinh điển Đại thừa.
I. Nguyên Do và Sự Thành
Lập Kinh A-Hàm
Thời đại Phật giáo
Nguyên thủy, đệ tử Phật và các tín đồ đối với giáo
pháp đã nghe thường dùng thể thơ hoặc những đoạn văn
xuôi ngắn gọn, hoặc dùng hình thức truyền miệng lẫn
nhau để ghi nhớ truyền thừa. Nhưng vì đệ tử Phật
tiếp thu không đồng nên mỗi bộ phái đều có tư tưởng
khác nhau. Vì thế, khi giáo đoàn được xác lập, vấn đề
chỉnh lý và thống nhất các giáo thuyết của Đức Phật là
một việc làm tất yếu. Nhờ đó, giáo thuyết của Đức
Phật được hoàn bị, lần lần phát triển thành một hình
thức văn học riêng biệt, cuối cùng trở thành Thánh điển.
Đó là nguyên do từ đâu có Kinh A-hàm.
Kinh A-hàm được thành
lập từ lúc nào, phải căn cứ vào số lần kiết tập để
luận bàn.
* Kiết tập lần
thứ nhất
Sau khi Phật nhập
diệt, vào một mùa hạ, 500 vị A-la-hán tập hợp trong hang
Thất Diệp ngoài thành Vương Xá. Đại chúng cử Tôn giả
Ca-diếp làm thượng thủ, cử hành kiết tập lần thứ
nhất. Tôn giả A-nan tụng Pháp (Kinh), Tôn giả Ưu-ba-ly
tụng Luật. Nguồn gốc sâu xa của Kinh A-hàm bắt nguồn
từ lúc này.
* Kiết tập lần
thứ hai
Sau khi Phật nhập
diệt khoảng 100 năm, 700 Tỳ-kheo tập hợp tại thành Tỳ-xá-ly.
Đại chúng cử ngài Da-xá làm thượng thủ, cử hành kiết
tập lần thứ hai. Lần kiết tập này chủ yếu tụng Luật
tạng.
* Kiết tập lần
thứ ba
Sau khi Phật nhập
diệt khoảng 236 năm, tức là thời Vua A-dục, đại chúng
tập hợp tại thành Hoa Thị, cử ngài Mục-kiền-liên-tử-đế-tu
làm thượng thủ, tổ chức kiết tập lần thứ ba. Đến đây
Tam Tạng giáo pháp mới hoàn thành.
* Kiết tập lần
thứ tư
Sau khi Phật nhập
diệt 400 năm, dưới sự hộ trì của Vua Ca-nị-sắc-ca, đại
chúng tập hợp tại nước Ca-thấp-di-la, cử Hiếp Tôn giả
và ngài Thế Hữu làm thượng thủ, cử hành kiết tập
lần thứ tư. Lần kiết tập này chủ yếu là luận thích
Tam Tạng.
Tóm lại, Kinh A-hàm
được tụng vào lúc kiết tập lần thứ nhất, từ lần
kiết tập thứ hai về sau, tức vào khoảng thế kỷ III trước
Tây lịch là thời kỳ Kinh A-hàm chính thức được thành
lập.
II. Hình Thức Văn Học
của Kinh A-Hàm
Các nhà phán giáo về
sau đã căn cứ vào thể loại của văn kinh mà chia Kinh A-hàm
thành hai thứ: Chín thể loại và Mười hai thể loại:
a. Chín thể
loại (Cửu bộ kinh)
1- Kinh
2- Trùng tụng
3- Ký thuyết
4- Kệ tụng
5- Cảm ứng kệ
6- Như thị ngữ (Bản sự)
7- Bản sanh
8- Phương quảng
9- Vị tằng hữu pháp.
b. Mười hai thể
loại (Thập nhị bộ kinh)
Mười hai là gồm chín
loại kể trên, cộng thêm Nhân duyên, Thí dụ và Luận
nghị. Chín thể loại thành lập sớm hơn mười hai thể
loại, nhưng về bộ loại văn học của Thánh điển Phật
giáo thì lấy mười hai thể loại làm luận cứ chắc
chắn.
III. Sự Truyền Thừa
của Kinh A-Hàm
Sau khi Phật nhập
diệt khoảng 100 năm, giáo đoàn thống nhất của Phật giáo
Nguyên Thủy chia thành Đại Chúng Bộ và Thượng Tọa Bộ.
Sau đó lại chia thành 20 bộ phái Tiểu thừa, mỗi bộ phái
đều có Kinh Tạng truyền thừa riêng biệt. Theo những tư
liệu hiện còn thì lúc ấy ít nhất cũng còn tồn tại
những kinh điển do Thượng Tọa Bộ (ở phương Nam), Hữu
Bộ, Hóa Địa Bộ, Pháp Tạng Bộ, Đại Chúng Bộ, Ẩm
Quang Bộ và Kinh Lượng Bộ truyền. Nhưng đến nay, chỉ có
kinh điển của Thượng Tọa Bộ ở phương Nam là hoàn toàn
được bảo tồn, gồm có 5 bộ: Trường Bộ, Trung Bộ, Tương
Ưng Bộ, Tăng-chi Bộ, Tiểu Bộ (tức Khuất-đà-ca A-hàm) chép
bằng văn Pàli. Đây là 5 bộ A-hàm Nam truyền.
Về mặt Bắc truyền,
do gom góp các kinh điển rời rạc riêng lẻ của các bộ phái
mà tạo thành bốn bộ A-hàm: Trường A-hàm, Trung A-hàm, Tăng
Nhất A-hàm và Tạp A-hàm. Bốn bộ kinh này được ghi bằng
Phạn văn. Đây là bốn bộ A-hàm Bắc truyền. Trong đó Trường
Bộ, Trung Bộ của Nam truyền tương đương với Trường A-hàm
của Bắc truyền; còn Tương Ưng Bộ tương đương với
Tạp A-hàm, Tăng-chi Bộ tương đương với Tăng Nhất A-hàm.
Năm bộ Nam truyền được
ghi bằng văn Pàli, gần với ngôn ngữ thường dùng ở
thời Phật, cho nên các học giả thường cho rằng Nam
truyền giàu sắc thái nguyên thủy hơn Bắc truyền.
IV. Khảo Sát từng Bộ
Kinh
Để có một cái nhìn
tường tận về danh nghĩa, nội dung và các bản dịch của
từng bộ kinh, thiết tưởng phải khảo sát từng bộ kinh
thì mới có thể hiểu rõ nguồn gốc của chúng. Nếu là
một tiểu luận được trình bày kỹ lưỡng lẽ ra phải
liệt kê từng phẩm kinh để đối chiếu dịch giả, thời
đại phiên dịch để thấy được giá trị của từng bộ.
Nhưng phạm vi bài viết này chỉ muốn khái quát về nguồn
gốc và nội dung chung, nên chỉ nói tóm lược 4 bộ hay 5
bộ mà thôi. Để tiện đối chiếu, ta nên trình bày chung các
bộ Nam truyền và Bắc truyền hầu giúp người đọc thẩm
định được rõ hơn. Trong quá trình phiên dịch, có lúc
bản Phạn hoặc Pàli được phát hiện trong những thời
gian khác nhau, thời đại phiên dịch (tân, cựu) cũng khác
nhau, nên có những bản kinh Biệt sanh (Biệt dịch), trùng
dịch, thất dịch... khác nhau.
Từ đó, đôi lúc nghĩa lý
hay văn cú cũng có thể chênh lệch nhau, đó là điều khó
tránh khỏi. Trong phần này, chúng ta dùng tên kinh Bắc
truyền làm gốc để đối chiếu, bởi lẽ tên kinh Bắc
truyền gần gũi với chúng ta hơn, vì Phật điển Việt Nam
hầu hết ảnh hưởng của Trung Quốc, vốn sử dụng chữ Hán
và thuộc hệ Bắc truyền.
1. Kinh Trường
A-Hàm
Kinh Trường A-hàm,
tiếng Phạn là Dìghàgama, tiếng Pàli là Digha - nikàya, gồm
22 quyển, do Ngài Phật-đà Da-xá và Trúc Phật Niệm cùng
dịch vào năm Hoằng Thỉ thứ 15 đời Dao Tần (413), hiện
được xếp vào Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập 1.
Sở dĩ nói "Trường" là vì do soạn tập những kinh
điển dài nhất trong A-hàm mà thành. Theo Tứ Phần Luật 54,
Ngũ Phần Luật 30, Luận Du-Già-Sư-Địa 85, nguyên do có
chữ "Trường" là vì tổng tập những kinh lớn (dài).
Tát-Bà-Đa Tỳ-Ni Tỳ-Bà-Sa 1 thì cho rằng Trường A-hàm là
phá dẹp các tà thuyết của ngoại đạo. Luận Phân Biệt Công
Đức thì cho rằng "Trường" nghĩa là nói những
việc lâu xa, nghĩa là trải qua nhiều kiếp vẫn không dứt.
Nói chung về phần định danh, các kinh luận nói khác nhau,
xong đại để vẫn vậy.
Toàn kinh chia làm 4
phần, gồm 30 kinh.
Trong đó, phần thứ nhất nói về bản
thủy và sự tích của Đức Phật;
phần thứ hai nói về
việc tu tập các hạnh và cương yếu giáo pháp của Phật
thuyết; phần thứ ba nói về các luận nạn đối với
ngoại đạo và dị thuyết;
phần thứ tư ghi chép về tướng
trạng khởi nguyên của thế giới (Vũ trụ).
Kinh này tương đương
với Trường Bộ (Pàli: Digha-Nikàya) trong 5 bộ của hệ Nam
truyền. Trường Bộ gồm có 3 phẩm, 34 kinh, tức Giới Uẩn
Phẩm (gồm 13 kinh), Đại Phẩm (10 kinh) và Pàli phẩm (11
kinh). Nhưng Thế Ký Kinh trong Trường A-hàm thì không có
trong Trường Bộ. Theo Mục Lục Tam Tạng (Anh văn) của học
giả Nhật Bản là Nanjò Fumio, nếu đối chiếu 34 kinh bản
Pàli với 30 kinh bản Hán dịch thì chỉ có kinh thứ 6 bản
Hán dịch và kinh thứ 10 bản Pàli là có mối quan hệ rõ ràng,
còn các kinh khác thì không nhất trí với nhau. Nhận xét
của một số học giả nổi tiếng khác của Nhật Bản thì
ôn hòa hơn, tức cho rằng các kinh tương tợ nhau.
Đặc biệt có Kinh
Thất Phật trong Trường A-hàm (Trung Quốc gọi là Biệt Sanh
Kinh) được trích riêng ra để dịch rất nhiều (21 loại).
Các học giả Tây phương thường dùng bản chép tay Pàli,
hiệu đính, phiên dịch rồi xuất bản cũng nhiều, như
Dialogues of Buddha, 1909 - 1921, do học giả người Anh là Rhys
Davids và phu nhân là J.E. Carpenter phiên dịch; Dic Reden des
Gotamo Buddhos, 1907 - 1918, do K..E. Newmann dịch sang tiếng Đức;
Das Buch der langen Texte des Buddhist Kanon Leipzig, 1913, do O. Franke
dịch sang tiếng Đức. Ngoài ra còn có bản chú thích Trường
Bộ Sumangalavilàsinì của Đại luận sư của Tích Lan sống
vào thế kỷ V là ngài Phật Âm (Buddhaghosa), được hai vợ
chồng Davids xuất bản vào năm 1986.
Trong các bản Sankrit
mới phát hiện ở Tân Cương, Trung Quốc có kinh tương
đương với Chúng Tập Kinh (Sangìti-sutta) - kinh thứ 9 của
bản Hán dịch, và tương đương với một đoạn kinh Atànàtiya-sutta
- kinh thứ 32 bản Pàli, được học giả R.Hoernle thu lục
trong tác phẩm Manuscrip Remains of Buddhist Literature found in
Eastern Turkestan,Vol.1.
Ngoài ra trong Đại
Tạng Kinh của Tây Tạng có Hdus-pa chen-pohi md tương đương
với Đại Hội Kinh - kinh thứ 19 trong Trường A-hàm;
Tshans-Pahi dra-bahi mdo tương đương với Phạm Đôĩng Kinh -
kinh thứ 21 trong Trường A-hàm; Lcan-lo-can-gyi pho-bran-gi mdo tương
đương với Aụtànàtiya-sutta trong Trường Bộ.
2. Kinh Trung A-Hàm
Kinh Trung A-hàm, tiếng
Phạn là Madhyamàgama, gồm 60 quyển, do ngài Cùụ-đàm Tăng-già-đề-bà
dịch sang Hán văn vào đời Đông Tấn (317-419), Trung Quốc,
được xếp vào Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập 1.
Sở dĩ nói "Trung" là vì nó không lớn cũng không
nhỏ, không dài cũng không ngắn. Trung A-hàm là bộ kinh
tổng tập những kinh điển vừa phải, không lớn lắm cũng
không nhỏ lắm.
Theo Tát-Bà-Đa Tỳ-Ni
Tỳ-Bà-Sa 1, Kinh Trung A-hàm là một bộ kinh Đức Phật
giảng nói các nghĩa lý sâu xa cho hàng chúng sinh lợi căn
nghe. Toàn kinh gồm có 5 phần tụng (Ngũ tụng), 18 phẩm và
222 kinh. Ngũ tụng gồm Sơ tụng, Tiểu độ thành tụng,
Niệm tụng, Phân biệt tụng và Hậu tụng. Ở đây xin lượt
phần liệt kê tên phẩm và tên kinh.
Kinh này lấy việc tự
thuật giáo nghĩa của Đức Phật và các đệ tử của Ngài
là chính. Trong đó thỉnh thoảng cũng nói về những điều
răn dạy của Đức Phật đối với các đệ tử, các bậc
vương giả, cư sĩ và các ngoại đạo. So với Kinh Tạp A-hàm,
kinh này tiến một bước rất lớn trong việc phân biệt
về pháp tướng, xem Đức Phật là một phân thân Phật có
đầy đủ 32 tướng.
Nếu Tạp A-hàm được xem như một
bộ kinh đúng như ý nghĩa của danh từ, thì Trung A-hàm lại
có cái khí vị của một bộ luận nhiều hơn.
Kinh này tương đương
với Trung Bộ (Pàli: Majjhima-Nikàya) trong 5 bộ kinh thuộc Nam
truyền. Trung Bộ gồm có 3 tụ, 15 phẩm và 152 kinh. Tụ
thứ nhất gồm 5 phẩm, mỗi phẩm có 10 kinh; tụ thứ hai cũng
gồm 5 phẩm, mỗi phẩm có 10 kinh; tụ thứ ba có 5 phẩm, 3
phẩm trước mỗi phẩm có 10 kinh, 2 phẩm sau mỗi phẩm có
11 kinh. Theo tác phẩm The Four Buddhist Agamas in Chinese (Bốn
bộ A-hàm bản Hán dịch) của học giả Tỷ Kỳ Chánh Trị
người Nhật Bản, Kinh Trung A-hàm (bản Hán dịch) chỉ có
98 kinh tương đồng với Trung Bộ (bản Pàli), nhưng thứ
tự của các phẩm và các kinh ấy cũng không hoàn toàn phù
hợp với nhau.
Đồng bản dị dịch
(tức cùng một bản Phạn nhưng khác người dịch, tất nhiên
là dịch sang Hán Văn) của kinh này có bản dịch của Đàm-ma-nan-đề
(59 quyển), bản dịch của Tăng-già-đề-bà (60 quyển).
Trong các bản kinh
tiếng Phạn mới được phát hiện gần đây ở tỉnh Tân Cương,
Trung Quốc, có kinh tương đương với Kinh Thỉnh Thỉnh (Pravàranà-sùtra),
kinh thứ 121 trong Trung A-hàm bản Hán dịch; có bản tương
đương với Kinh Ưu-ba-li (Upàli-sùtra), kinh thứ 133; có bản
tương đương với Kinh Anh Vũ (Súka-sùtra), kinh thứ 170 trong
Trung A-hàm, được học giả R.Hoernle thu lục trong tác phẩm
Manuscrip Remains of Buddhist Literature found in Eastern
Turkestan,Vol.I.
Trong Đại Tạng Kinh
của Tây Tạng có Mdo Chen-po gzugs-can snin-pos bsu-ba shes-bya-ba
tương đương với Kinh Tần-bà-sa-la Vương Nghinh Phật, kinh
thứ 62 trong bản Hán dịch; Las rnam-par hbyed-pa tương đương
với Kinh Anh Vũ, kinh thứ 170 bản Hán dịch; Khams-man-pohi mdo
tương đương với Kinh Đa Giới, kinh thứ 121 bản Hán
dịch; Mdo Chen-po ston-pa-nid ses-bya-ba tương đương với Kinh
Tiểu Không, kinh thứ 190 bản Hán dịch; Mdo Chen-po ston-pa nid
chen-po shes-bya-ba tương đương với Kinh Đại Không, kinh
thứ 191 bản Hán dịch.
Các học giả hiện đại
phần nhiều cho rằng Kinh Trung A-hàm do Tát-bà-đa bộ
truyền.
3.Kinh Tăng Nhất
A-Hàm
Kinh Tăng Nhất A-hàm,
tiếng Phạn là Ekttarikàgama, tiếng Pàli là Anguttara-Nikàya,
gồm 51 quyển, do ngài Cù-đàm-tăng-già Đề-bà dịch vào đời
Đông Tấn (317-419), Trung Quốc, được xếp vào Đại Chánh
Tân Tu Đại Tạng Kinh tập 2.
Theo Thiện Kiến Luật
Tỳ-Bà-Sa 1, Ngũ Phần Luật 30, Tứ Phần Luật 54, sở dĩ nói
"Tăng Nhất" là vì bộ kinh này phân loại và tập
đại thành thứ tự của các pháp số từ 1 đến 11 pháp.
Theo Tát-Bà-Đa Tỳ-Ni Tỳ-Bà-Sa, Tăng Nhất A-hàm là một
bộ kinh tổng tập những bài thuyết pháp của Đức Phật tùy
thời giảng nói cho chư thiên và chúng sinh nghe. Toàn kinh
gồm 52 phẩm, 472 kinh. Kinh này có sắc thái Đại thừa rất
đậm, được thành lập trễ nhất trong 4 bộ A-hàm.
Nội dung kinh này ban đầu
nói phẩm Tựa, thuật lại chuyện ngài A-nan truyền tụng
kinh điển, sự kết tập của kinh này, nhân duyên Ưu-đa-la
thọ pháp v.v... Sau đó nương theo thứ tự tăng dần của các
pháp số mà phân loại và gom tập. Đặc biệt trong bộ kinh
này, sau các phẩm hoặc các kinh phần nhiều có phần tổng
tụng, tức phần đại yếu của mỗi phẩm hoặc mỗi kinh.
Về số phẩm và số
quyển của Kinh Tăng Nhất A-hàm, 3 bản đời Tống; đời
Nguyên và đời Minh có 52 phẩm, 50 quyển; trong Cao Ly tàng
bản thì có 50 phẩm, 51 quyển. Về pháp số được trình bày
theo thứ tự tăng dần trong kinh này có hai thuyết:
1. Theo Luật Ma-ha Tăng-kỳ 32, Luận A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa 10 và Hữu Bộ Tỳ-nại-da Tạp Sự 39, Kinh Tăng Nhất A-hàm vốn trình bày thứ tự tăng dần từ 1 pháp đến 100 pháp, nhưng về sau bị mất mát hết nên chỉ còn 10 pháp.2. Theo Luật Ngũ Phần 30, Luật Tứ Phần 54 và Luận Phân Biệt Công Đức 2, Kinh này trình bày thứ tự tăng dần từ 1 pháp đến 11 pháp. Thuyết này phù hợp với nội dung của Kinh Tăng Nhất A-hàm hiện còn.
Kinh này tương đương
với Tăng Chi Bộ (Pàli: Anguttara-nikaya) trong 5 bộ kinh hệ
Nam truyền. Tăng Chi Bộ gồm 11 tụ, 171 phẩm, 2203 kinh. Theo
tác phẩm The Four Buddhist Agamas in Chinese của học giả người
Nhật, trong 472 kinh của Tăng Nhất A-hàm (Bản Hán dịch
chỉ có 136 kinh là tương đương hoặc có thể đối chiếu
so sánh với Tăng Chi Bộ Kinh), Tăng Chi Bộ Kinh không có bao
hàm tư tưởng Đại thừa như trong bản Hán dịch, lại ít
có dấu hiệu của sự thêm thắt sửa đổi; cho nên có
thể niên đại hoàn thành bộ này trước bản Hán dịch,
tức khoảng thế kỷ thứ I Tây lịch. Ngoài ra, theo phần đề
giải Kinh Tăng Nhất A-hàm trong Phật Quang Đại Tạng Kinh, Tăng
Nhất A-hàm có 153 kinh tương đương hoặc gần giống Tăng
Chi Bộ Kinh.
Kinh Biệt Sanh (Kinh được
trích dịch riêng) của Tăng Nhất A-hàm có Kinh A-la-hán Cụ
Đức 1 quyển, kinh này có đến 18 bản dịch khác nhau. Trong
các bản Phạn văn mới phát hiện được ở Tân Cương có
kinh tương đương với kinh thứ 5 trong phẩm Thiện Tụ của
bản Hán dịch, được Học giả R. Hoernle thu lục vào tác
phẩm Manuscript Remains of Buddhist Literature found in Eastern
Turkestan, vol 1.
Ngoài ra trong Đại
Tạng Kinh Tây Tạng có Kinh Byams-pas shus-pahi lehu (Từ Thị
Sở Vấn Phẩm) tương đương với Thiện Tri Thức Phẩm,
Kinh thứ 6 bản Hán dịch; Mdo Chen-po rgyal-mtshan dam-pa
shes-bya-ba (Đại Vi Diệu Tràng Kinh) tương đương với Kinh
thứ nhất của Cao Tràng Phẩm bản Hán dịch; Lden-pa-bshihi
mdo (Tứ Đế Kinh) tương đương với Kinh thứ nhất trong
phẩm Tứ Đế bản Hán dịch; Byams-pa bsgom-pahi mdo (Từ Quán
Tưởng Kinh) tương đương với Kinh thứ 10 trong phẩm Phóng
Ngưu.
Các học giả cận đại
cho rằng Kinh Tăng Nhất A-hàm là do một phái nhỏ sau cùng
của Đại Chúng Bộ truyền.
4. Kinh Tạp A-Hàm
Kinh Tạp A-hàm, tiếng
Phạn là Samyuktàgama, tiếng Pàli là Samyutta-Nikàya, gồm 51
quyển, do ngài Cầu-na Bạt-đà-la dịch sang tiếng Trung
Quốc vào đời Lưu Tống, được xếp vào Đại Chánh Tân
Tu Đại Tạng Kinh tập 2.
Về tên gọi Kinh Tạp
A-hàm, theo Ngũ Phần Luật 30, Tứ Phần Luật 54, kinh này do
Đức Phật giảng thuyết về Tứ Thánh Đế, Bát Thánh Đạo,
Thập Nhị Nhân Duyên... cho các thính chúng Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thiên tử, Thiên nữ v.v...
Nay gom tập lại thành một bộ nên gọi là Tạp A-hàm. Theo
Luật Ma-Ha Tăng-Kỳ 32, do gom tập những câu văn phồn tạp
nên gọi là Tạp A-hàm. Ngoài ra, theo Tát-Bà-Đa Tỳ-Ni Tỳ-Bà-Sa
1, Tạp A-hàm là bộ kinh xiển dương các loại thiền định,
là pháp môn mà người tu tập thiền định phải thực hành.
Theo Luận Du-Già-Sư-Địa 85, do tất cả sự tướng đều tương
ưng với giáo, gom hết những nghĩa lý đó nên gọi là Tạp
A-cấp-ma (Tạp A-hàm).
Toàn kinh này gồm 50
quyển, 1362 tiểu kinh (theo số mục được biên tập trong Đại
Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh), nội dung tương đương với Tương
Ưng Bộ (Samyutta-Nikàya, gồm 2858 tiểu kinh, 203 phẩm, 516 thiên,
5 tụ) bản Pàli thuộc hệ Nam truyền. Đây là bộ kinh lớn
nhất trong 4 bộ A-hàm bản Hán dịch. Về thời kỳ thành
lập, kinh này cũng được thành lập sớm nhất trong 4 bộ
A-hàm. Nếu phân loại theo tính chất của từng phẩm thì toàn
kinh có thể chia ra 3 bộ phận lớn:
1. Tu-đa-la: Gồm các phẩm nói về Uẩn, Xứ, Duyên khởi, Thực, Đế, Giới, Niệm, Trụ v.v...2. Kỳ-dạ: Gồm những lời vấn đáp được trình bày theo lối kệ tụng.3. Ký thuyết: Những lời của Phật và các đệ tử của Ngài tuyên thuyết.
Ba bộ phận nói trên,
theo thứ tự tương đương với 3 loại "Sở
thuyết", "Sở vi thuyết" và "Năng
thuyết" được nêu trong Luận Du-Già-Sư-Địa 85.
Kinh Tạp A-hàm là bộ
kinh còn bảo tồn được phong cách của Phật giáo Nguyên
Thủy. Trong đó, tuy có những phần do đời sau biên soạn,
nhưng hầu hết là được thành lập vào thời kỳ sớm
nhất. Những câu pháp trong kinh này phần nhiều đơn giản.
Đối với pháp môn tu hành thực tiễn thì có các phẩm nói
về Niệm, Trụ, Uẩn, Giới, do Đức Phật và các đệ tử
trực tiếp đối thoại với nhau mà có sự khác nhau về
Tứ song, Bát bội, nương theo 8 chúng mà giảng nói "Chúng
tương ưng", khiến cho các hàng tại gia, xuất gia, nam
nữ lão ấu cho đến các đại đệ tử đều lãnh thọ được
giáo pháp.
Các học giả cận đại
nghiên cứu về 4 bộ A-hàm rất nhiều, đầu tiên là các
học giả Tây phương, sau đó các học giả Nhật Bản tiến
thêm một bước là luận cứu về văn kinh, phần lớn đều
đặc biệt chú trọng nghiên cứu bằng bản Pàli, cho đó là
Thánh điển Nguyên Thủy và xem nhẹ những ngữ văn khác.
Kinh A-hàm bản Hán dịch do pho quyển quá nhiều, các chương
phẩm lại trùng lặp, từ ngữ mâu thuẫn, văn dịch lại có
chỗ thừa có chỗ thiếu, do những yếu tố đó nên không
được phổ cập.
Sau khi Trung Quốc chú trọng nghiên cứu
Phật học thì các học giả mới có xu hướng tham khảo
lại tư tưởng A-hàm. Như Kinh Tạp A-hàm, do nội dung của
bản hiện còn vốn không hoàn chỉnh, thứ tự lại lộn
xộn, thất lạc, kinh văn lại khó hiểu, nên các học giả
cận đại phải chỉnh lý kinh này. Trước mắt có
"Tạp A-hàm Kinh" của Phật Quang Sơn sử dụng cách
chấm câu theo thể thức mới, từng đoạn được trình bày
rõ ràng, chú trọng đối chiếu giữa bản Pàli, bản Hán
dịch và các bản khác, phân định lại thứ tự của các
quyển, sau mỗi tiểu kinh đều có giải thích ý của kinh,
những chỗ khó hiểu trong kinh thì chua thêm bản Pàli, hoặc
dịch thành tân văn (văn Bạch thoại). Ngoài ra, bản này
được hiệu đính nghiêm túc, chú giải tỉ mỉ, dẫn
chứng đầy đủ, đó là điểm đặc sắc của bản này.
Tạp A-Hàm Kinh Luận Hội Biên của ngài Ấn Thuận thì đối
chiếu Kinh Tạp A-hàm với Du-già-sư-địa Luận, đó là điểm
đặc sắc nhất của bản này. Ngài Ấn Thuận sử dụng cách
phân loại theo nội dung của kinh giống như cổ lệ ở Ấn
Độ, không phân quyển theo phương pháp truyền thống của các
bản Hán dịch, gồm 7 phần tụng, 51 tương ưng.
Theo tác phẩm Hán Ba
Tứ Bộ Tứ A-Hàm Hổ Chiếu Lục của một học giả Nhật
Bản là Xích Chiểu Trí Thiện, giữa Tương Ưng Bộ của
hệ Nam truyền và Kinh Tạp A-hàm bản Hán dịch thuộc Bắc
truyền, không những số kinh được ghi chép khác nhau mà nghĩa
lý trong đó trái ngược nhau cũng không ít. Một học giả
Nhật Bản khác là Tỷ Kỳ Chánh Trị cũng tham chiếu giữa
các kinh như Tương Ưng Bộ bản Pàli, Kinh Tạp A-hàm bản Hán
dịch, Hữu Bộ Tỳ-nại-da Tạp Sự v.v...Trong tác phẩm
"Hán Dịch Tứ A-hàm" (The Four Buddhist Agamas in
Chinese) của ông, ông đã phân chia nội dung thành 8 phẩm, 63
bộ.
Ngoài ra, 3 phẩm A-dục
Vương Nhân Duyên Kinh, Pháp Diệt Tận Tướng Kinh, A-dục Vương
Thí Bán A-ma-lặc Quả Nhân Duyên Kinh trong hai quyển 23 và 25
nói trên, nếu căn cứ trên nội dung, nghĩa lý của kinh mà
nói thì không nên biên nhập vào Kinh Tạp A-hàm. Cho nên
trong hai bản mới của Trung Quốc đều loại bỏ ba phẩm
kinh này ra khỏi Kinh Tạp A-hàm. Riêng bản của Phật Quang Sơn
thì xếp ba phẩm này vào phần Phụ Lục để các độc
giả tham khảo. Số kinh đầy đủ của bản này là khoảng
1300 tiểu kinh, tức là bao hàm cả các kinh trong hai quyển 23
và 25 nói trên. Phật Quang Đại Tạng Kinh ngoại trừ 3 kinh
nói trên, còn 1359 kinh, đồng thời hiệu chỉnh lại pho
quyển và đặt lại tên kinh mới. Trong "Tạp A-hàm Kinh
Luận hội biên" của ngài Ấn Thuận thì sau mỗi kinh đều
có liệt kê những kinh có liên quan đến kinh ấy, tức
tổng cộng toàn bộ gồm hơn một vạn kinh. Trong "Quốc
Dịch Nhất Thiết Kinh" của Nhật Bản cũng sử dụng phương
pháp của ngài Ấn Thuận, nhưng tổng số kinh so với bản
của ngài Ấn Thuận thì có khác nhau.
Kinh Tạp A-hàm bản Hán
dịch có đến 3 loại, các kinh Biệt Sanh thì có đến hơn
30 loại, tổng cộng là 33 loại. Ngoài ra, từ năm 1884, nguyên
văn của Tương Ưng Bộ bản Pàli liên tục được dịch ra
tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Nhật Bản, hiệu đính và
sửa chữa rất nhiều. Đặc biệt vào năm 1924, ông W.
Piyattisa đã xuất bản tác phẩm chú thích Tương Ưng Bộ (Pàli:
Sàratthappakàsini) của Đại Luận sư Phật giáo Tích Lan
thế kỷ V là ngài Phật Âm (Pàli: Buddhaghosa).
Trong những bản Phạn
mới phát hiện được ở tỉnh Tân Cương, Trung Quốc cận
đại cũng có những đoạn tương đương với Kinh Tạp A-hàm
bản Hán dịch. Các học giả hiện đại rất chú trọng
nghiên cứu các bản Phạn này.
Về sự truyền thừa
Kinh Tạp A-hàm, theo Pháp Hoa Kinh Huyền Tán 1, Đại Thừa Pháp
Uyển Nghĩa Lâm Chương 4, Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao Huyền Đàm,
Kinh Tạp A-hàm đều do Đại Chúng Bộ truyền, nhưng Câu Xá
Luận Kê Cổ quyển thượng thì cho rằng Kinh Tạp A-hàm và
Trung A-hàm là do Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (tức Tát-bà-đa
Bộ) truyền.
Còn ngài Ấn Thuận thì cho rằng Kinh Tạp A-hàm
bản Hán dịch là do Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ truyền, Tương
Ưng Bộ bản Pàli là do Xích Đồng Diệp Bộ truyền, Kinh
Tạp A-hàm bản biệt dịch là do Ẩm Quang Bộ truyền.
V. Kết Luận
Kinh điển A-hàm là
kinh điển có hình thái nguyên thủy nhất. Trên phương
diện Văn học sử, người ta tìm thấy ở đây hình ảnh
sống động nhất và chân thật nhất về cuộc đời Đức
Phật và giáo đoàn Phật giáo ngày xưa. Do không được
tiếp cận với các văn bản cổ cũng như các bản Pàli,
một số hệ tư tưởng Bắc truyền từ lâu đã xem nhẹ
Kinh A-hàm. Tất nhiên về mặt Tư tưởng sử, họ không tìm
thấy những quan niệm như Phật tánh, Tam thân v.v... trong
kinh điển Nguyên Thủy, nhưng phương pháp mà Phật chỉ
dạy để liễu sanh thoát tử, chứng nhập Niết-bàn thì không
thể không nghiên cứu trong Kinh A-hàm mà có thể tìm hiểu
chính xác được. Do vậy, sự tìm tòi, đối chiếu, phân
loại cũng như hiệu đính các bản kinh của một số học
giả và danh tăng cận đại là việc làm vô cùng ý nghĩa.
Tại Việt Nam nói riêng,
đã đến lúc chấm dứt quan niệm cho rằng Kinh A-hàm là
Tiểu thừa. Đại và Tiểu không có ranh giới trong kinh điển,
chỉ có trong chính quan niệm của chúng ta thôi. Hãy lật
lại từng trang kinh đã từ lâu phủ bụi thời gian, để
cho Thánh pháp dựng hình sống động và miên viễn giữa lòng
đời trái đắng mật đen này./.
-ooOoo-
Tài Liệu Tham Khảo
- Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.
- Phật Quang Đại Từ Điển.
- Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng Luận (Kimura Taiken - HT. Quảng Độ dịch).
- Bài tựa Kinh Trường A-hàm (HT. Thiện Siêu dịch).
- Phật Giáo Thánh Điển (HT. Thánh Nghiêm).
--
http://www.budsas.org/uni/1-bai/phap038.htm
No comments:
Post a Comment