Giới thiệu:
Mit thương,
Nghe tin Sư Ông bịnh nặng, anh tìm chút ít thơ của Ông để đọc. Thoáng thấy bài thơ về cô nhi viện là anh xúc động lắm và đọc ngay..
Anh thích một câu trong đó nhất..
ĐỗNguyễn
--
Thơ Thích Nhất Hạnh
Tôi thấy em nơi sân nghèo cô nhi viện
hai mắt của em buồn
chứa đầy tủi hận
khi thấy tôi
em quay mặt nhìn nơi khác
bàn tay em vẽ những vòng tròn loanh quanh trên mặt đất
tôi nào dám hỏi ba má em đâu
tôi nào dám khơi động nguồn mạch thương đau
tôi chỉ muốn chuyện trò chốc lát
cười nói đôi câu
ngồi với em một phút
cho em vơi chút u sầu
đất nước đau cùng số phận
em hãy mở miệng cười
để cho nhau hy vọng
thế hệ các em
chưa đầy năm tuổi trên đầu
đã thấy tan tành hoa mộng
cuộc đời xô về hung hãn cuồng bạo
khổ lụy vì đâu
thế hệ chúng tôi kém hèn gây nên nông nổi
lát nữa rồi tôi đi
để em ở lại sân nghèo cô nhi viện
hai mắt của em buồn
tôi đi
em trở về góc sân quen thuộc
và ngón tay em lại vẽ những vòng thương đau trên mặt đất
--
Mỗi khi đọc bài này tôi lại nhớ đến
những năm 1957-1958 tôi hay đi thăm các em trong cô nhi viện Thị Nghè.
Tôi rất thương các em cô nhi nhưng không hiểu sao tôi cảm thấy như nghẹt
thở mỗi khi đến cô nhi viện. Nếu một bà mẹ không thể nào thương yêu và
chăm sóc chu đáo cho hai mươi đứa con của mình thì một nữ tu sĩ cũng khó
mà có thể thương yêu chăm sóc bảy chục hay một trăm em cô nhi. Lần nào
đi cô nhi viện về tôi cũng bâng khuâng buồn bã. Sau đó tôi bỏ cô nhi
viện, đi làm việc tại các xóm ổ chuột tại thành phố, rồi đi làm trường
Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội. Mãi đến năm 1973 sau khi hòa ước được ký kết
tại Paris tôi mới có nhiều thì giờ lo cho các em. Càng suy nghĩ nhiều
về vấn đề cô nhi, tôi càng hiểu rõ vì sao tôi vẫn có cảm giác khó thở
khi vào các cô nhi viện. Cô nhi viện chỉ là sản phẩm của người tây
phương. Ngày xưa Việt Nam không có cô nhi viện và con mồ côi vẫn sống
bên ông bà hay cô chú của chúng. Nếu mỗi cô nhi có được một số tiền trợ
cấp hàng tháng để không là gánh nặng cho gia đình người bà con nuôi em
thì em sẽ hạnh phúc khi ở với ông bà hơn là sống trong cô nhi viện. Tôi
soạn thảo một dự án tìm người bảo trợ cô nhi, chịu cấp dưỡng tiền hàng
tháng cho gia đình nuôi các em mà quá nghèo. Sau khi bổ túc và chấp
thuận, Phái Đoàn Phật Giáo tại hải ngoại đã gửi dự án này về trình lên
Ủy Ban Tái Thiết và Phát Triển của Giáo Hội. Trong dự án này, ngoài việc
tạo điều kiện giữ các em lại dưới mái gia đình êm ấm của ông bà hay cô
dì các em, chúng tôi còn đề nghị chẻ những cô nhi viện quá đông trẻ em
ra thành nhiều tiểu gia đình để các em sống lại không khí ấm cúng của
một gia đình nhỏ. Chúng tôi lập tại mỗi nước một tiểu ban để lo cho
chương trình này. Nhiều người bạn trẻ người ngoại quốc quen thân với
Phái Đoàn được mời vào các tiểu ban này để kêu gọi sự ủng hộ của người
địa phương nước ấy. Bài thơ Tôi Thấy Em Nơi Sân Nghèo Cô Nhi Viện vì vậy
đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và được các tiểu ban nói trên ấn hành
rộng rãi. Cứ nước nào vừa lập xong tiểu ban lo cho cô nhi Việt Nam thì
bài thơ này lại được ấn hành hàng ngàn bản bằng tiếng nước đó để gửi đi
kêu gọi. Vào tháng 6 năm 1973 chúng tôi chỉ mới tìm ra bốn mươi gia đình
bảo trợ cho bốn mươi cô nhi tại gia Việt Nam; vậy mà đến tháng hai năm
1975 chúng tôi đã tìm được 9.670 người để bảo trợ cho 9.670 cô nhi. Các
ca sĩ như Joan Baez, Nân Mouskouri đã nhiều lần tặng tiền cho dự án này.
Tại Paris và các tỉnh lớn ở Pháp, chúng tôi thường mời các nhạc sĩ danh
tiếng như Graeme Allwright, Maxime Le Forestier, Claude Nougaro, Dick
Annegan v.v … đến hát. Lần nào Pierre cũng năn nỉ thầy Nhất Hạnh lên đọc
dùm bài thơ này trước khi nhạc hội mở đầu. Tôi và Pierre vẫn thường hay
đi dán bích chương cổ động các nhạc hội vào khoảng tám giờ tối đến hai
giờ khuya. Đêm nào về, tay chân của hai chị em cũng lạnh cóng vì băng
giá. Thầy có nhắc tới chuyện này trong một bài thơ trong đó có những
câu:
thương bé nhỏ vơ mùa loạn lạc
sen vàng bướm gửi khắp trời tây
tờ hoa nhạc hội bừng chiêng trống
xóm dưới thôn trên dán chật đầy
giăng mắc đường dây trăm xứ lạ
ân nghĩa bên trời mãi dựng xây
Sen Vàng tức là báo Le Lotus của Phái Đoàn Phật Giáo Việt Nam tại Paris ấn hành trên giấy màu vàng bằng Anh ngữ và Pháp ngữ. Tờ hoa đây là những tờ quảng cáo đại nhạc hội. Bé đây là các cô nhi.
Người trẻ làm việc cho chương trình này
cũng khá đông. Piere, Neige, Mobi, Hương và tôi làm việc toàn thời gian
tại văn phòng Phái Đoàn. Thoa, Lội, Hoàng Anh, Hằng, Hải, Tính, Nga,
anh Trương, anh Cao Thái giúp dịch hồ sơ tại nhà mỗi đêm vài giờ. Một số
sinh viên khác đến giúp bất định kỳ, tùy theo khả năng. Huệ Châu và anh
Hướng cũng lãnh về nhà hàng chồng hồ sơ cô nhi. Anh Hướng tuy là khoa
học gia nhưng cũng là thi sĩ. Thơ anh đã được in thành hai tập từ hồi
còn là sinh viên, và Lá Bối 1978 có ấn hành tập Ngày Mẹ Về của anh, ký
tên là Hoài Việt. Điều mà tôi ghi mãi trong lòng về hai người bạn này là
anh chị luôn đặt mình vào thế đứng tôn trọng sự sống của con người và
chống đối những bất công từ bất cứ hướng nào. Trong những ngày mà tiếng
nói của lập trường này bị bóp chẹt nhất, Hướng và Huệ Châu lúc nào cũng
sẵn sàng nói: “Có chúng tôi đây !”
SC Chân Không