Saturday 24 January 2015

Nhớ em trai

Nhớ em trai

Hôm nay xem kệ sách,
Anh thấy tác phẩm này:
Những mẫu chuyện đạo..

Đó là cuốn sách xưa
Do em trai cho mượn
Thời ấy sách hiếm hoi..

Nhìn sách lại nhớ người
Người em xưa ra đi
Lòng tin còn gởi lại!

ĐỗNguyễn
anh nhớ về Q., đứa em trai đã mất..

Chuông reo, vui quá!

Đang ngủ nghe chuông reo

Bao lâu rồi em nhỉ
Không được nghe em gọi
Niềm hạnh phúc vô song!

Trưa thứ bảy mơ màng
Nghe tiếng gọi ngày xưa
Anh tìm về đường cũ

Thấy dáng em vừa đó,
Mới gọi anh vừa xong
Anh gọi em lại thấy không

Cô bé gọi anh xong,
Sao anh goị không bắt
Làm anh vui trông mong..

ĐỗNguyễn

Chatroom

Ve

Net ao VN that mong manh,
Luc thi dut cap, luc ca' an,
Lai them he thong dang bi hack,
Voice room tro lai Chatroom roi!





DoNguyen
thu bay

Tang Mit bai hat Quang nom ta

Anh Tuyet, giong hat Quang Nom

Friday 23 January 2015

đ. Ngộ



 Dachkonstruktion

Từ sớm đi Nam

Dáng người ra gare sớm,
Chiều tối người ấy mới trỡ về,
Thương đ. Ngộ nhiều ghê!

ĐỗNguyễn
 

Thursday 22 January 2015

Vẫn thấy bên đời còn có anh..

Vẫn thấy bên đời còn có anh..

đ. Ngộ

Giọng nói em

Nụ cười giòn
Sao thương quá!

Nhất là,
Khi nghe em
Nói chữ đâu ấy

Trong đời của anh
Mùa đông 2015
Rất lạnh giá!
Nhưng
Bắt đầu từ hôm nay
Bổng
Ấm lắm

Vì trong anh
Và bên anh
Có tia nắng ấm
Từ em

Sao anh thèm nghe
Giọng nói em!

ĐỗNguyễn
..cõi đời bao la vẫn ngân dài..

Tứ thiền


Chung quanh đề tài sơ thiền và nhị thiền

ĐỗNguyễn

0. Định là gì

Tiếng pàli "Samàdhi" là định. Ðịnh nghĩa là tập trung tâm ý vào một đề mục hay một đối tượng duy nhất không được phân tán hay xao lãng.

1. Tứ thiền

Về tứ thiền, Kinh Trung bộ 19 (1) viết:


"Chư Tỷ-kheo, Ta phát tâm dõng mãnh, tinh tấn, không có tiêu cực, niệm không tán loạn được an trú, thân được khinh an, không có cuồng nhiệt, tâm được định tĩnh nhất tâm.

Chư Tỷ-kheo, Ta ly dục, ly ác, bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ, Ta chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, Ta chứng và an trú Thiền thứ ba. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, Ta chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh."

2. Vai trò quan trọng của thiền tập

Con đường thiền tập được Kinh TBK Saccaka ghi rằng:
"Ðây là đạo lộ đưa đến giác ngộ"."(Saccaka, TBK 36)(2)

" Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Thuở xưa có những Sa-môn hay Bà-la-môn thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng, không thể có gì hơn nữa. Về tương lai, có những Sa-môn hay Bà-la-môn thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng không thể có gì hơn nữa. Trong hiện tại, có những Sa-môn hay Bà-la-môn thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng, không thể có gì hơn nữa. Nhưng Ta, với sự khổ hạnh khốc liệt như thế này, vẫn không chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh. Hay là có đạo lộ nào khác đưa đến giác ngộ?"

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta biết, trong khi phụ thân Ta, thuộc giòng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây diêm-phù-đề (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ". Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: "Ðạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?" Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Ðây là đạo lộ đưa đến giác ngộ"."

3. Lạc thọ trong thiền tập

Lạc thọ do thiền mang lại không nguy hiểm:
" Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta có sợ chăng lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện?" Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta không sợ lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện"." (TBK 36)

4. Thiền mang lại tuệ

Kinh chép: "Không phải người trí thì không thể tu thiền, không tu thiền thì không thể được trí" 

5. Tham dục

Các dục khi cầu khổ
Khi được nhiều sợ-hãi
Khi mất lại lo rầu
Tất cả thời không vui


6. Sân 
Giết sân thì an-lạc
Giết sân thì vô-ưu
Sân là gốc của độc
Sân diệt tất cả thiện
Ðã biết sân nguy-hiểm như thế, phải chóng tu từ-bi, nhẫn-nhục để diệt-trừ nó cho tâm được thanh-tịnh.

7. Ngủ

Khi thiền dễ buồn ngủ, do đó, cần đối trị để vượt qua:

Do ngủ khiến tâm không thấy được

8. Năm triền cái

Trong tác phẩm Toạ thiền chỉ quán (4) viết:


"Có người hỏi: "Những việc ác nhiều như bụi không thể tính hết, tại sao ở đây chỉ dạy bỏ 5 điều mà thôi?" Ðáp: Trong 5 điều nầy gồm cả tam độc và đẳng-phần, 4 thứ nầy làm căn-bản, nhiếp cả tám muôn bốn ngàn trần-lao. Ðó là:

1- Tham muốn thuộc tham độc.
2- Giận hờn thuộc sân độc.
3- Mê ngủ và nghi thuộc si độc
4- Diêu-động và hối hận thuộc đẳng phần.
Chúng hiếp thành 4 phần phiền-não. Trong mỗi phần có 2 muôn một ngàn. Họp 4 phần là 8 muôn 4 ngàn. Thế nên, trừ ngũ-cái là trừ tất cả pháp ác. Người tu nên lấy những việc như thế trừ bỏ ngũ-cái. Ngũ-cái bỏ rồi, ví như người mang nặng được gỡ bỏ, như bệnh được lành, như người đói được đến nước giàu có, như giặc bị bao vây được cứu thoát, yên ổn không lo sợ. Người tu cũng vậy, trừ được ngũ-cái rồi, tâm yên ổn, mát mẻ an vui, như mặt trời, mặt trăng bị 5 việc che tối: khói, bụi, mây, mù, nhật nguyệt thực, nên không thể chiếu sáng. Tâm người bị ngũ-cái cũng như thế."

9. Sơ thiền

Tác phẩm Thanh tịnh đạo toát yếu, Thích phước Sơn (3) viết rất rõ và chi tiết như sau:

" Ðến đây, hành giả hoàn toàn ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Sơ thiền, có tầm, có tứ, với hỉ lạc do ly dục sinh; từ bỏ 5 pháp, đạt được 5 pháp, tốt đẹp ở 3 phương diện, có 10 đặc tính, và Sơ thiền nầy thuộc biên xứ đất.


Hoàn toàn ly dục nghĩa là thoát khỏi mọi dục vọng, vì dục là cái đối nghịch với so thiền. Nếu có dục thì không thể đắc Sơ thiền, cũng như có tối thì không có sáng. Danh từ "dục" bao gồm nhiều thứ; Ðó là dục kể như đối tượng, tức là những sắc pháp dễ ưa thích, và dục kể như cấu uế như vibhanga nói: "Ðam mê là dục, thèm muốn là dục, khát khao là dục".


Ly bất thiện pháp là xa lìa các triền cái khác ngoài dục. Như vậy, ly dục là từ bỏ cái nhân của tham, còn ly bất thiện pháp là từ bỏ cái nhân của si. Ly dục là thanh tịnh thân nghiệp, ly bất thiện pháp là thanh tịnh ý nghiệp. Nói cách khác, ly dục tức là thân viễn ly còn ly bất thiện pháp tức là tâm viễn ly.

Ở đây, cũng nên hiểu thêm về ý nghĩa của dục. Chữ dục thường dùng để dịch các từ chanda, kàma ràga. Chanda rất thông dụng, có nghĩa là hăng say, ham muốn tốt hoặc xấu. Kàma chỉ chung ngũ dục thuộc dục giới, còn theo nghĩa hẹp là dâm dục. Nếu kàma kết hợp với chanda thì thành ra kàmacchanda nghĩa là dục tham. Ràga là ham muốn, thèm khát theo ý xấu.
Ở trên nói đạt được năm pháp tức chỉ cho 5 thiền chi là tầm, tứ, hỉ, lạc và nhất tâm.


Tầm (vitakka)

 là trạng thái hướng tâm đến một đối tượng; nhiệm vụ nó là đập mạnh vào. Tứ (vicàra) là tư duy được nâng lên cao độ. Ðặc tính của nó là liên tục nhấn mạnh vào đối tượng. Nhiệm vụ của nó là khiến cho những tâm pháp đều tập trung trên đối tượng. Mặc dù tầm và tứ không rời nhau, nhưng tầm có nghĩa là sự xúc chạm đầu tiên của tâm với đối tượng, như đánh lên một tiếng chuông. Còn tứ là buộc tâm vào một chỗ, như rung chuông. Hơn nữa, tầm được ví như bàn tay nắm chặt cái đĩa kim loại bị hoen rỉ, còn tứ như bàn tay chà xát cái đĩa ấy bằng một mảnh dẻ tẩm dầu. Hoặc khi ta vẽ một cái vòng tròn thì cây kim cố định giữa trung tâm ví như tầm, cây kim di động vòng quanh cái tâm điểm đó gọi là tứ. Sơ thiền được xảy đến cùng lúc với tầm tứ nên được gọi là "Câu hữu với tầm tứ".


Hỉ 

là trạng thái tươi tỉnh, mát mẻ. Nó gồm có 5 cấp bậc từ thấp lên cao: tiểu hỉ; hỉ như chớp nhoáng; hỉ như mưa rào; hỉ nâng người lên và hỉ sung mãn. Tiểu hỉ chỉ có thể là dựng lông tóc trong người mà thôi. Hỉ như chớp nhoáng thỉnh thoảng lóe lên. Hỉ như mưa rào nổi trên cơ thể liên tục, như sóng vỗ vào bờ. Hỉ nâng người có thể làm cho thân thể mất trọng lượng và bay bổng lên. Hỉ sung mãn là toàn thân được thấm nhuần, như cái chai đổ đầy nước.
Năm thứ hỉ nói trên, khi được làm cho chín muồi thì sẽ viên mãn 2 thứ khinh an là thân khinh an và tâm khinh an. Khinh an được làm cho chín muồi sẽ viên mãn 2 thứ lạc là thân lạc và tâm lạc. Lạc được ấp ủ làm cho chín muồi, sẽ viên mãn 3 thứ định là định chốc lát, định cận hành và định an chỉ.


Lạc (sukha

là sự hài lòng, sự hạnh phúc. Ðặc tính của nó là làm thỏa mãn. Dụng của nó là tăng cường độ các pháp tương ứng. Tướng của nó là sự hỗ trợ.
Khi hỉ lạc được liên kết, thì hỉ có nghĩa "hài lòng vì đạt được điều mong ước", còn lạc là "kinh nghiệm thực thụ đối với điều đã đạt được". Có hỉ tất nhiên có lạc, nhưng có lạc thì không nhất định có hỉ. Hỉ thuộc hành uẩn, lạc thuộc thọ uẩn. Lúc một người khát nước kiệt sức trên sa mạc mà thấy được vũng nước ven rừng, người ấy sẽ có hỉ, nếu người ấy đi đến uống nước ấy thì sẽ có lạc.


Nhất tâm hay định

là tâm chuyên chú vào một đối tượng duy nhất.


Sơ thiền là cấp thiền đầu tiên đối với các cấp bậc khác. Chứng (upassampajja) là đạt đến, là thể nhập, đến nơi, sờ chạm, thực hiện. Trú (viharati) là an trú trong tư thế thích hợp đối với cấp thiền đã đạt được.


Từ bỏ 5 pháp

tức là từ bỏ 5 triền cái (tham, sân, hôn trầm, trạo hối và nghi). Mặc dù lúc đắc thiền, các pháp bất thiện khác cũng được từ bỏ, nhưng chỉ có 5 pháp nầy là đặc biệt chướng ngại đối với thiền.

Khi tâm bị tham dục chi phối do thèm muốn các đối tượng sai khác, thì không thể tập trung vào một đối tượng duy nhất. Khi tâm bị nhiễm độc bởi sân thì không thể sinh khởi hỉ lạc. Khi tâm bị hôn trầm, thùy miên chi phối, thì rất khó điều phục. Khi bị trạo hối quấy nhiễu, thì tâm trở nên bất an, lăng xăng. Khi hoài nghi nổi lên thì tâm không thể bước lên đạo lộ để đắc thiền.
Ðây là bản dồ dùng 5 thiền chi đối trị 5 triền cái.


Thiền chi

*

Triền cái
Tầm

đối trị
Hôn trầm
Tứ

đối trị
Nghi
Hỉ

đối trị
Sân
Lạc

đối trị
Trạo hối (cử)

Nhất tâm (định)

đối trị
Tham dục.

Những ví dụ về 5 triền cái: Tham dục được ví như một tô nước có trộn lẫn các màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Sân được ví như một nồi nước đang đun sôi sùng sục. Hôn trầm được ví như một hồ nước bị rong rêu che phủ. Trạo hối được ví như một hồ nước bị gió chao làm cho nổi sóng. Nghi được ví như một hồ nước bị khuấy bùn đục ngầu. (Tương Ưng bộ kinh, Chương II, phẩm VI, mục 55, tr. 126-129)


Tốt đẹp ở 3 phương diện là chỉ cho 3 giai đoạn đầu, giữa và cuối. Ở Sơ thiền, sự thanh tịnh đạo lộ là chặng đầu; sự tăng trưởng xả là chặng giữa và sự toại ý là chặng cuối.


Mười đặc tính là chặng đầu có 3, chặng giữa 3 và chặng cuối 4. Chặng đầu 3 đặc tính là: tâm được lọc sạch chướng ngại do thiền; nhờ lọc sạch nó chuẩn bị cho trạng thái quân bình ở chặng giữa tức tịnh chỉ tướng; nhờ tâm đã chuẩn bị, nên dễ thể nhập trạng thái ấy. Chặng giữa 3 đặc tính là: hành giả bấy giờ, với trạng thái xả, nhìn tâm đã được thanh lọc; nhìn tâm đã được chuẩn bị cho tịnh chỉ, và nhìn sự xuất hiện của nhất tướng. Chặng cuối có 4 đặc tính là: toại ý vì không có sự quá độ nào trong các pháp khởi lên; toại ý vì các căn chỉ có một nhiệm vụ duy nhất; toại ý vì sự nỗ lực đã có kết quả; toại ý với nghĩa lý thuần thục. Ðó là 10 đặc tính khi m?t hành giả đã đạt được Sơ thiền.

Khi hành giả đã làm chủ sự tác ý, làm chủ sự chứng đắc, làm chủ sự quyết định, làm chủ sự xuất địnhlàm chủ sự quán sát, thì lúc xuất khỏi sơ thiền đã trở nên quen thuộc. Vị nầy có thể quán những khuyết điểm của nó như sau: "Thiền nầy bị đe dọa vì gần các triền cái, và các thiền chi còn yếu do bởi tầm, tứ còn thô". Hành giả có thể nghĩ đến Nhị thiền là an tịnh hơn; do đó, chấm dứt bám víu vào Sơ thiền, mà khởi sự làm những gì cần thiết để đạt đến Nhị thiền." (Thanh tịnh đạo toát yếu/ Thích Phước Sơn)

10. Nhị thiền 

Tác phẩm Thanh tịnh đạo toát yếu (1) viết rất rõ và chi tiết như sau:

Ðến đây, "hành giả làm tịnh chỉ tầm và tứ, chứng và trú Nhị thiền, nội tĩnh nhất tâm, không tầm, không tứ, với hỉ và lạc do định sanh; Vị ấy từ bỏ 2 pháp, có được 3 pháp,tốt đẹp ở 3 phương diện, có 10 đặc tính và thuộc biến xứ đất."


Làm tịnh chỉ tầm và tứ nghĩa là làm cho tầmtứ lắng xuống, vượt qua TầmTứ, hai thiền chi này không có mặt ở Nhị thiền.


Nội tĩnh nhất tâm: Nội là phát xuất từ nội tâm. Tĩnh là làm cho tâm an ổn với niềm tin, làm lắng dịu sự dao động. Nhất tâm là làm tâm thuần nhất, vững chãi, là sự tập trung cao độ. Từ nầy chỉ cho định.


Có hỉ và lạc như đã giải thích ở Sơ thiền. Do định sanh nghĩa là sinh từ định của Sơ thiền, hoặc sinh từ định tương ưng.


Từ bỏ hai pháp là từ bỏ tầm và tứ. Có được 3 pháp là có hỉ, lạc và nhất tâm. Những gì còn lại cũng giống như đã nói ở Sơ thiền.
Khi hành giả đã nhuần nhuyễn đối với Nhị thiền, dần dần sẽ thấy rõ Nhị thiền còn có những khuyết điểm. Do đó, hướng đến Tam thiền.(3)

11.Tam thiền

Tác phẩm Thanh tịnh đạo toát yếu, Thích phước Sơn (3) viết rất rõ và chi tiết như sau:



Ðến đây, "Hành giả ly hỉ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm thọ lạc, một trạng thái mà các bậc thánh tuyên bố là "Có xả và chánh niệm, trú trong an lạc", và vị này đạt đến Tam thiền, từ bỏ một pháp, có được 2 pháp, tốt đẹp ở 3 phương diện, có 10 đặc tính và thuộc biến xứ đất. "

Ly hỉ là vượt qua, làm rơi rụng Hỉ ở Nhị thiền.

Trú xả (Upekkha-xả) có nghĩa là ngắm nhìn sự vật khi chúng xảy ra một cách thản nhiên, không thêm không bớt, không thành kiến. Khái niệm xả này gồm có 10 thứ: Xả thuộc 6 căn; Xả thuộc 4 phạm trú; Xả kể như một giác chi; Xả về tinh tấn; Xả về hành uẩn; Xả về thọ uẩn; Xả thuộc tuệ; Xả kể như tính trung lập đặc biệt; Xả ở thiền; Và xả kể như sự thanh tịnh.

Xả thuộc 6 căn là xả ở một vị đã đoạn tận lậu hoặc. Xả kể như một phạm trú là thái độ bình đẳng đối với mọi loài chúng sanh. Xả kể như một giác chi là trạng thái trung tính. Xả về tinh tấn là trạng thái không quá tinh cần, cũng không quá biếng nhác. Xả thuộc hành uẩn là thái độ thản nhiên đối với những triền cái. Xả về thọ uẩn là tình trạng không lạc không khổ. Xả thuộc tuệ là tính cách trung lập đối với sự suy đạt. Xả kể như tính trung lập đặt biệt là một trong 4 pháp thuộc bất định pháp. Xả thuộc thiền là tính vô tư bình đẳng. Xả kể như sự thanh tịnh là loại xả nhờ đã được tịnh chỉ hết các đối lập. Tóm lại, Xả nầy có đặc tính là trung tính; Nhiệm vụ nó là không can dự. Nó được biểu hiện bằng vô dục. Nhân gần của nó là sự từ bỏ hỉ. Ðó là giải thích về Xả. Sau đây, tiếp tục giải thích các vấn đề ở trên.

Chánh niệm tỉnh giác: Vị ấy nhớ lại (sarati) nên gọi là chánh niệm (sati); có sự giác tỉnh toàn vẹn, nên gọi là tỉnh giác (sampajàna). Mặc dù chánh niệm và tỉnh giác nầy cũng hiện hữu ở 2 thiền đầu, nhưng chưa rõ rệt lắm.

Thân cảm thọ lạc là vị này cảm thấy lạc liên hệ đến thân thể, và sau khi xuất thiền vẫn còn lạc.

Tam thiền là theo thứ tự thiền này được chứng vào hàng thứ 3.

Từ bỏ một pháp, có hai pháp là từ bỏ hỉ, khởi lên lạcnhất tâm. Ðây là những yếu tố căn bản của thiền thứ 3 này. Nhưng hành giả tu tập thiền này đến độ thuần thục, dần dần sẽ nhận ra thiền này vẫn còn khuyết điểm, nên hướng tâm đến thiền thứ tư.

12. Tứ thiền

Cũng thế, tác phẩm Thanh tịnh đạo toát yếu, Thích phước Sơn (3) viết rất rõ và chi tiết như sau:

" Bước sang giai đoạn này " Với sự từ bỏ lạc và khổ, với sự biến mất từ trước của hỉ và ưu, vị này chứng và trú Tứ thiền, không khổ, không lạc, có sự thanh tịnh của niệm nhờ xả. " Và như vậy, hành giả đắc Tứ thiền, từ bỏ một pháp, có 2 pháp, tốt đẹp ở 3 phương diện, có 10 đặc tính và thuộc biến xứ đất.

Với sự từ bỏ lạc và khổ là từ bỏ lạckhổ của thân. Với sự biến mất của hỉ và ưu là sự biến mất lạckhổ của tâm. Từ trước là không phải ở giai đoạn Tứ thiền mới xảy ra.

Không khổ không lạc: không khổ vì vắng mặt thân khổ; Không lạc vì vắng mặt thân lạc. Bằng câu này, luận chủ nêu lên loại cảm thọ thứ ba trái ngược hẳn với khổ và lạc, chứ không phải chỉ có sự vắng mặt của khổ và lạc mà thôi. Do đó, không khổ không lạc còn gọi là xả.

Từ bỏ một pháp, có được hai pháp là từ bỏ lạc, có được xả - kể như cảm thọ - và nhất tâm. Ðây là những yếu tố căn bản của thiền thứ tư này.

Tóm lại, trải qua các giai đoạn từ Sơ thiền đến thứ tư, dần dần các yếu tố được loại trừ và còn lại như sau:

- Sơ thiền bỏ 5 triền cái, được 5 thiền chi. - Nhị thiền bỏ tầm tứ, còn lại hỉ, lạcnhất tâm. - Tam thiền bỏ hỉ còn lại lạcnhất tâm. - Tứ thiền bỏ lạc còn lại nhất tâmXả.

--
(1) http://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung19.htm
(2) http://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung36.htm
(3) http://www.budsas.org/uni/u-ttd-ty/ttd-ty02.htm
(4) http://www.budsas.org/uni/u-chiquan/chiquan2.htm


Wednesday 21 January 2015

Ngay da be cong toi.. Tho Ba-Lan Urszula Koziol



Mời Mit 

xem câu này..hình tượng hay quá đi:

nhưng ngày đã bẻ cong tôi như chính cành của nó..


Mùa hè

Bây giờ có phải buổi trưa của tôi hay là bóng tối
Tôi nghe đuổi đến gần
những móng ngựa của giờ khắc đang điểm

Tôi muốn bẻ cong ngày
như một cành cây
trong vườn quả người lạ

nhưng ngày đã bẻ cong tôi như chính cành của nó

URSZULA KOZIOŁ

Bản dịch Hoàng Ngọc Biên

Trinh bay bai giang..

Hi Mit,

Anh thích cách trình bày của GVD trên youtube từ lâu..
Giới thiệu với em và bạn đọc..

ĐN

Cách làm bài giảng trực tuyến


Giáp Văn Dương


Sau khi giới thiệu kênh giáo dục trực tuyến GiapSchool1, tôi nhận được khá nhiều câu hỏi về cách thức soạn bài giảng trực tuyến dưới dạng video clip bằng máy tính. Vì thế, bài viết này có mục đích chia sẻ những kinh nghiệm của tôi, thu được trong quá trình làm các video clip bài giảng này. Tôi hy vọng những kinh nghiệm còn thiếu sót này sẽ giúp ích được ít nhiều cho các thầy cô giáo, hoặc những người muốn chia sẻ kiến thức với cộng đồng.

h1 h2

1. Bốn câu hỏi khởi đầu

Trước khi tiến hành làm các bài giảng trực tuyến, bạn phải trả lời rõ ràng 4 câu hỏi sau: Giảng cho ai? Giảng cái gì? Giảng để làm gì? Giảng như thế nào?
Chỉ khi nào bạn trả lời rõ ràng được 4 câu hỏi này, bạn mới ý thức được ý nghĩa việc làm của mình. Khi đó, bạn sẽ tìm ra cách làm phù hợp nhất, trọn vẹn nhất.
Vì mỗi người có một cách trả lời riêng cho các câu hỏi này, nên tôi sẽ để ngỏ câu trả lời cho các bạn.Trong các phần sau, tôi sẽ giới thiệu làm các video bài giảng trực tuyến mà không sử dụng camera ngòai để quay. Cách làm này có ưu điểm là đầu tư nhân lực và vật lực thấp. Một mình bạn cũng có thể làm được. Việc bạn lựa chọn cách làm này, hay cách quay bài giảng theo kiểu truyền thống, là theo sở thích cá nhân, và theo điều kiện của riêng bạn.

2. Giảng bài với máy tính cá nhân

Với máy tính bàn, bạn cần trang bị tối thiểu một microphone, một loa và nếu muốn có hình ảnh của mình xuất hiện trong bài giảng, thì cần thêm một webcam. Nếu muốn chữ trên bài giảng là chữ viết tay thì trang bị thêm Wacom Bamboo Tablet, một loại bảng vẽ điện tử cho phép chuyển những gì mình viết trên bảng này lên màn hình máy tính. Và tất nhiên một phần mềm có khả năng ghi lại màn hình và âm thanh. Có rất nhiều phần mềm phù hợp với việc này, như Camstudio2, Camtasia recorder3

Tôi đã thử Camstudio cho bài giảng được soạn bở powerpoint, thấy kết quả rất tốt. Tôi được biết, Khanacademy4 dùng Camtasia recorder để ghi hình và âm thanh, kết hợp với Wacom Bamboo Table để có chữ viết tay trên video clip bài giảng.

Để giảng bài bằng máy tính cá nhân, trước hết bạn cần soạn bài giảng bằng power point, hoặc một phần mềm trình bày tương tự. Bạn cũng có thể soạn bài và giảng bài trực tiếp trên nền một phần mềm viết, vẽ nào đó. Sau đó bạn chạy phần mềm ghi hình (Camstudio hoặc Camtasia recorder) để ghi lại toàn bộ màn hình máy tính và lời giảng. Bạn có thể ghi chọn lọc một vùng nào đó trên màn hình để chỉ tập trung vào phần chứa nội dung bài giảng, tránh các phần không liên quan bị lẫn vào video clip của bạn.
Tất nhiên, để có thể sử dụng thành thạo các phần mếm này, bạn phải làm quen, có thể một buổi hoặc một ngày, và đọc hướng dẫn trước khi sử dụng.

3. Giảng bài với máy tính bảng ipad

Nếu bạn có máy tính bảng ipad, bạn có thể làm các video bài giảng trực tuyến với sự hỗ trợ của các phần mềm chuyên dụng (app) như ScreenChomp5, Educrations6, Doceri7, Lecture Capture, ReplayNote8, Explain Everything9… Các phần mềm này đều có trong App Store. Bạn phải mua, thường là vài đô-la, hoặc tải về miễn phí. Trong đó, ScreenChomp và Educreation là dễ sử dụng nhất, còn Explain Everything là phức tạp nhất. Riêng Doceri thì có thể dùng cả trên ipad và máy tính bàn, tức có thể xử lý bài soạn trên ipad bằng máy tính cá nhân thông thường. Tùy yêu cầu mà bạn chọn phần mềm phù hợp với mình. Để viết, bạn có thể dùng tay hoặc bút cảm ứng.
Cá nhân tôi, ban đầu tôi dùng đồng thời Lecture Capture, ReplayNote và Explain Everything. Lecture Capture dễ dùng nhất nhưng ra mực không mượt nên chữ xấu. ReplayNote chữ đẹp, dễ sử dụng nhưng không có tính năng zoom. Còn Explain Everything thì phức tạp hơn, xuất clip cũng mất thời gian hơn, nhưng có thể phóng to thu nhỏ. Đến nay, tôi dùng chủ yếu là Explain Everything, tuy mất nhiều thời gian xuất video clip, nhưng tính năng zoom của nó phù hợp với triết lý giảng bài của tôi hơn cả.
Tôi cũng phải nói rằng, các app này đều có hạn chế riêng, có thể do người viết phần mềm chưa phải là những giảng viên chuyên nghiệp nên không hình dung được hết những yêu cầu cần phải có để tạo ra một bài giảng tốt. Hy vọng, trong tương lai những phần mềm tốt hơn sẽ xuất hiện, giúp cho việc bài giảng trực tuyến được thuận lợi và dễ dàng hơn.
Ngòai ra, trước khi sử dụng, tất nhiên, bạn phải dành thời gian tìm hiểu và đọc các hướng dẫn, thường khá dễ, thì mới dùng được các phần mềm này.
Tôi đã mất hơn một tuần chỉ để tìm kiếm và thử nghiệm các app này. Tuy nhiên, soạn và giảng dùng ipad tuy có cơ động, nhưng không thể tốt như khi dùng máy tính cá nhân. Lý do là với máy tính cá nhân, bạn có thể dùng nhiều phần mềm hỗ trợ mạnh hơn, việc xử lý dữ liệu và biên tập bài giảng sau đó cũng sẽ tốt hơn. Do đó, tôi sẽ sớm trở lại sử dụng máy tính cá nhân để soạn và giảng bài.
Hy vọng, những chia sẻ này sẽ tiết kiệm được thời gian và công sức cho các bạn.

4. Soạn bài, giảng bài, biên tập

Trước khi làm các video clip bài giảng, bạn phải soạn bài, sau đó giảng bài có thu âm ghi hình, và biên tập các video bài giảng thô này thành các video clip hoàn chỉnh.
Chất lượng của việc soạn bài phụ thuộc vào kiến thức, tài liệu tham khảo, và năng lực chuyên môn của riêng bạn. Không ai có thể làm thay bạn việc này được.
Lưu ý rằng thời gian đọc, tham khảo tài liệu, bố trí nội dung, soạn bài…, tức thời gian chuẩn bị, thường lâu hơn thời gian giảng bài thực.
Chất lượng của việc giảng bài phụ thuộc trước hết vào chất lượng bài soạn, hoặc kiến thức trong đầu của bạn, sau đó là phương pháp sư phạm, như cách thức truyền đạt, phong thái, giọng nói, khả năng giữ nhịp, khả năng liên kết các mục của bài giảng, thậm chí cả ngọai hình của bạn nếu ghi hình trực tiếp kiểu truyền thống. Với việc giảng bài trên lớp, đây là một phần khó. Với việc giảng bài trực tuyến, vì không có phản hồi trực tiếp của học sinh, nên việc này còn khó khăn gấp bội.
Sau khi có các video clip bài giảng thô rồi, bạn thường phải dùng các phần mềm biên tập để có được các video clip hoàn chỉnh. Với máy tính cá nhân thông thường, dễ dùng và có lẽ phổ biến hơn cả là Movie Maker của Windows. Nếu bạn dùng ipad hoặc các dòng máy tính của Apple, bạn có thể dùng iMovie để biên tập. Thời gian biên tập, thường mất nhiều hơn cả thời gian giảng bài.

5. Cần một triết lý riêng

Khi giảng bài trực tuyến, tôi nhận thấy rõ, mỗi bài giảng thực sự là một tác phẩm sáng tạo, vì thế đòi hỏi những đầu tư thích đáng trong việc chuẩn bị, thiết kế và triển khai. Nhưng trên hết là một hệ thống các ý tưởng, các quan niệm làm bệ đỡ phía sau các bài giảng này. Đó có thể là các quan niệm rất cụ thể về một chủ đề nào đó; nhưng cũng bao gồm cả các quan niệm rộng hơn về các thang giá trị; các quan niệm về thực tại và diễn giải; về chủ quan và khách quan; về xác định và bất định; về tri thức và cảm xúc; về khả năng và giới hạn; về tự do và nguyên tắc; về sự bất khả; về cái Thật, cái Thiện và cái Đẹp; về bản chất con người…
Xuất phát từ các quan niệm này, bạn sẽ thiết kế và triển khai các bài giảng của mình. Trong quá trình đó, bạn phải tạo được một phong cách, hay một triết lý riêng. Việc này quả thật không đơn giản. Với cá nhân tôi, phải mất hơn một tháng suy nghĩ, thử và lựa chọn, tôi mới hình thành được triết lý riêng cho việc giảng bài của mình. Đó là bài giảng theo thời gian thực, nhưng tổ chức bài giảng theo sự tiến hóa của tự nhiên và sắp xếp chúng theo mạch ký ức của con người. Cụ thể: Từ một màn hình đen kịt, như huyền vũ thuở ban sơ, cô đơn, hoang mang và huyền bí; cảm giác gần giống như khi ta nhìn lên bầu trời vào một đêm không trăng, lác đác đó đây một vài vì sao nhỏ; rồi từ đó tiếng nói, con chữ và hình vẽ xuất hiện; sự sống bắt đầu và tiến hóa dần thành những tổ chức phức tạp; thành con người với bao buồn vui hy vọng, bao điều cần khám phá. Cái khách quan của tri thức lạnh lùng và cái chủ quan đầy cảm xúc của người giảng sẽ hòa quyện vào nhau trong suốt mạch giảng. Nhưng cũng giống như cuộc đời, tất cả rồi sẽ qua đi để trở thành ký ức. Những lớp ký ức chồng chất lên nhau và được xếp vào một góc nhỏ ở phía trái màn hình, để hiện tại nảy nở sinh sôi. Chỉ khi nào cần thiết, ta mới truy hồi trở lại ký ức. Còn không, tất cả sẽ chỉ là hiện tại. Một hiện tại ngay trên màn hình: ở đây, bây giờ; trong một mạch thời gian vừa tĩnh lặng, vừa cuộn chảy.
Mỗi bài giảng sẽ có một số phận riêng như chính mỗi con người. Chính vì thế, chúng phải có một ký ức để nhớ về, một hiện tại còn ngổn ngang và một tương lai bất định, dù chúng ta đã cố gắng hoạch định nó. Cũng chính vì thế, chúng cần một phong cách riêng, một triết lý riêng để sống.

6. Đưa bài giảng đến với cộng đồng

Sau khi đã có bài giảng hoàn chỉnh, bạn phải đưa được bài giảng của mình đến với cộng đồng. Cách phổ biến nhất là upload các bài giảng này lên youtube, sau đó chia sẻ các đường link đến những người quan tâm, thông quan Facebook, email, hay bất cứ công cụ giao tiếp trực tuyến nào khác.
Nếu dùng Educreations, ReplayNote… thì bài giảng của bạn sẽ được upload trực tiếp lên server của các app này. Bạn sẽ có tài khỏan và đường link của các bài giảng này, và có thể theo dõi các bài giảng liên quan cộng đồng sử dụng phần mềm này (ví dụ với Educrations). Khi đó, bạn chỉ cần chia sẻ đường link bài giảng với cộng đồng.
Nếu có điều kiện, bạn có thể lập một trang blog, hoặc sang hơn là một trang web riêng, để đăng tải các bài giảng này.
7. Nhận phản hồi
Sau khi đã đăng tải các bài giảng lên mạng internet, bạn cần lắng nghe các phản hồi để điều chỉnh. Lý do: khi giảng bài, bạn không có bất cứ phản hồi nào từ học viên thực để có thể điều chỉnh tại chỗ, nên bạn phải lắng nghe phản hồi sau đó để điều chỉnh về nội dung, phương pháp, các tiếp cận, thậm chí cả lỗi trong bài giảng do người học chỉ ra… để khắc phục sai sót nếu có, và rút kinh nghiệm cho các bài giảng sau được hoàn thiện hơn.
Việc tiếp nhận và xử lý các phản hồi này cũng đòi hỏi thời gian và một sự kiên nhẫn không kém gì việc soạn bài, giảng bài và biên tập bài giảng.

8. Ước luợng chi phí

Rất khó để ước lượng chi phí cho việc làm các bài giảng trực tuyến này, vì chi phí lớn nhất là thời gian. Mà giá trị của thời gian lại phụ thuộc từng cá nhân. Với bạn, giá của một giờ làm việc có thể là 1000 USD/giờ, nhưng với tôi lại có thể thấp hơn, nên rất khó đưa ra một ước lượng chính xác. Tuy nhiên, nếu chỉ dùng thời gian để làm đơn vị tính, thì trung bình, tổng thời gian để tạo ra được một video clip bài giảng dài 10 phút là khoảng 2-3 giờ, tùy mức độ khó dễ và nguồn tư liệu sử dụng trong nội dung bài giảng. Với những vấn đề thuộc chuyên môn của bạn, thời gian có thể ngắn hơn, chỉ khoảng 1 giờ. Nhưng với những vấn đề mới thì thời gian tìm đọc và xử lý tài liệu có khi lên đến cả ngày, hoặc hơn.Ngòai ra, để có đầy đủ thiết bị có thể tạo ra các bài giảng này, bạn phải đầu tư tối thiểu một máy tính/máy tính bảng và một số thiết bị phụ trợ. Số đầu tư này ước tính khoảng 1000 USD với giá hiện thời.

Nếu đầu tư thêm trang thiết bị khác, sách vở, tư liệu tham khảo, và nhất là một phòng thu đúng tiêu chuẩn, thêm một chuyên viên kỹ thuật để xử lý nhiễu âm thanh và hình ảnh, thì chất lượng các video clip này sẽ được cải thiện gấp bội. Những đầu tư này có thể lên đến hàng chục, hoặc hàng trăm nghìn đô-la. Điều này vượt quá khả năng của hầu hết chúng ta, trong đó có tôi. Vì vậy, chúng ta phải chấp nhận làm việc với những gì mình đang có, dù không được ưng ý.
Nếu bạn đã đọc được bài viết này, nhiều khả năng bạn đã có máy tính cá nhân hoặc máy tính bảng riêng, nên chi phí để khởi động không còn là vấn đề đáng lo ngại. Điều cần lo ngại là bạn có đủ muốn, đủ đam mê để thực hiện hay không mà thôi.

9. Những khó khăn lường trước

Để làm quen và sử dụng thành thạo các công cụ đã nêu trên, có thể bạn phải mất một vài ngày, hoặc một vài tuần. Tuy nhiên, với những khó khăn mang tính kỹ thuật này, phần lớn chúng ta đều có thể vượt qua nếu muốn.
Theo kinh nghiệm của cá nhân tôi, khó khăn nhất là phải giảng cho máy tính chứ không phải cho những học viên thực đang ngồi trước mặt bạn. Khi giảng bài cho học viên, bạn sẽ có phản hồi ngay tức thì, và sẽ điều chỉnh tốc độ, phong cách, nội dung bài giảng… theo các phản hồi đó. Nhưng màn hình máy tính thì không thể làm được điều đó, nên chẳng còn cách nào khác là bạn phải tự dò dẫm. Với bài giảng thực trên lớp, nhịp điệu bài giảng sẽ diễn ra một cách rất tự nhiên, phù hợp nhất phong thái với bạn. Nhưng với bài giảng trên máy tính, bạn phải kiểm soát nó một cách nhân tạo và có chủ ý, sao cho bài giảng không rời rạc, buồn ngủ.
Ngòai ra, khi giảng bài trên lớp, bên cạnh nội dung bài giảng thì bạn có rất nhiều công cụ để sử dụng hỗ trợ, như động tác tay, lời nói, ánh mắt, nụ cười, khoảng lặng, phản ứng và hưởng ứng của học sinh…Những điều này làm cho bài giảng của bạn dễ dàng và trơn tru hơn rất nhiều sơ với giảng bài trên máy tính. Vì với máy tính, bạn chỉ có một công cụ duy nhất là giọng nói. Bạn phải điều khiển nó như điều khiển một dải lụa mềm xuyên suốt bài giảng, sao cho người nghe không rời rạc, chán nản và bỏ giữa chừng. Lý tưởng nhất là bên cạnh kiến thức chuyên môn thì bạn có thêm tố chất của một MC hoặc một diễn viên tấu hài. Khi đó, bài giảng của bạn sẽ hấp dẫn hơn rất nhiều.
Vì đã có kinh nghiệm giảng bài cả trên lớp và trên máy tính, nên nếu phải so sánh hai việc này thì tôi có hai so sánh sau, bạn tùy chọn cách nào dễ hình dung nhất đối với mình:
  • Giảng bài trên lớp giống như khi bạn vẽ tranh với quyền được sử dụng nhiều màu sắc khác nhau. Đó là các phương tiện hỗ trợ cho bài giảng như tư thế đi lại, động tác tay, lời nói, ánh mắt, nụ cười, phản ứng và sự cộng hưởng của học sinh, thậm chí khoảng lặng…. Còn giảng bài trên máy tính, bạn giống như đang vẽ tranh với một màu duy nhất. Đó là giọng nói. Bạn có thể chọn màu xanh, đỏ, tím, vàng, đen… tương ứng với chất giọng cố hữu của mình, với các mức độ đậm nhạt khác nhau do bạn tự điều chỉnh, nhưng đó chỉ là một màu duy nhất, và là tất cả những gì bạn có thể sử dụng để vẽ.
  • Khi giảng bài trên lớp, bạn được sống, được thể hiện cảm xúc với những con người thực sự đầy sinh động. Còn khi giảng bài trên máy tính, bạn phải sống và thể hiện cảm xúc với một vật thể vật lý, đó là màn hình máy tính. Điều này quả thật không dễ, đòi hỏi bạn phải rất tĩnh, rất thoát, rất trống rỗng, hoặc có hỗ trợ cảm xúc của người bên cạnh, như thể bạn đang giảng bài cho họ nghe, thì mới có thể làm tốt được.
  • Vẽ một bức tranh và lấp đầy các khoảng trống bằng chỉ một màu duy nhất là không dễ. Cá nhân tôi, với những bài giảng đầu tiên, tôi phải giảng đi giảng lại đến 5-7 lần, vì chỉ cần nói nhịu, nói sai, hay vấp một chỗ nào là đã có thể phải làm lại. Và chỉ khi đến bài giảng thứ 77, tôi mới tạm làm chủ được được việc giảng bài trên máy tính của mình. Vì thế, bạn cần kiên nhẫn, và đặc biệt, bạn phải thật tĩnh, thật thoát, thật trống rỗng, giống như khi thiền định vậy, thì mới có thể thực hiện hiệu quả.
    Ngòai những khó khăn trên, tiếng ồn và sự phân tâm cũng là những khó khăn mà bạn cần lường trước. Đặc biệt, bạn phải nhận được sự ủng hộ của những người thân thiết nhất. Nếu không, bạn sẽ bị coi như một kẻ tâm thần, khi cả ngày chỉ ngồi lảm nhảm một mình trước màn hình máy tính mà không lo gì đến chuyện cơm áo gạo tiền.

    10. Hãy đi, rồi sẽ tới

    Nếu bạn có một đội ngũ hỗ trợ trong việc soạn và giảng bài thì mọi việc sẽ thuận lợi hơn rất nhiều. Khi đó, bạn không cần phải vượt qua tất cả các khó khăn một mình, mà luôn có đồng đội ở bên cạnh. Việc soạn bài, giảng bài, ghi hình, biên tập… sẽ mang tính chất công nghiệp, với những quy tắc và tiêu chuẩn chung, nên sẽ dễ dàng hơn vì luôn có điểm tựa ở phía sau bạn. Nhưng nếu bạn làm tất cả một mình, như tôi chẳng hạn, thì bạn cần lường trước những khó khăn để không bỏ cuộc.
    Cũng giống như trong mọi việc sáng tạo khác, để có một tác phẩm tầm tầm thì rất dễ, nhưng để có một tác phẩm hòan mỹ thì gian khó vô cùng. Vì thế, khi gặp khó khăn, mọi việc sẽ dễ dàng hơn nếu bạn không cầu toàn. Những lúc đó, bạn phải biết bao dung với chính mình.
    Đến đây, tôi viết đã khá dài, nhưng chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót. Tôi hy vọng những chia sẻ này sẽ không làm bạn nản chí, mà ngược lại, sẽ giúp bạn hình dung rõ hơn các khía cạnh của việc làm bài giảng trực tuyến, để thêm quyết tâm thực hiện. Vì ít nhất, cũng đã có hơn một người mò mẫm và vượt qua.
    Trước khi kết thúc, chỉ xin lưu ý bạn rằng, dù bạn làm một mình, hay với đồng đội, thì điều quan trọng nhất là bạn phải bắt đầu. Hành trình nào cũng khởi đầu bởi một bước chân. Hãy đi, rồi sẽ tới...

    Chúc các bạn thành công!

    Giáp Văn Dương

    1 http://www.youtube.com/giapschool
    2 http://camstudio.org/
    3 http://www.techsmith.com/camtasia.html
    4 http://www.youtube.com/khanacademy
    5 http://www.techsmith.com/screenchomp.html.
    6 http://www.educreations.com/
    7 http://doceri.com/
    8 http://replaynote.com/
    9 http://www.explaineverything.com/

    --
    http://www.diendan.org/khoa-hoc-ky-thuat/cach-lam-bai-giang-truc-tuyen

    Tuesday 20 January 2015

    De muc: Từ/ Theo Thanh tinh dao





    1. TỪ (METTÀ)



    Những đề mục Thiền kế tiếp các tùy niệm là 4 Phạm trú, tức Từ, Bi, Hỉ và Xả. Trước hết hãy nói về Từ.

    Một hành giả muốn tu tập đề mục thiền nầy trước hết phải trừ khử những chướng ngại và học kỹ về nó bằng cách quán sát những nguy hiểm của sân hận và lợi ích của sự kham nhẫn, như kinh đã dạy: "Không có pháp nào cao hơn nhẫn nhục, không có Niết bàn nào cao hơn kham nhẫn". (Trường II, 94; Pháp cú 184).

    Theo luận chủ, lúc mới bắt đầu tu tập về tâm từ, hành giả nên tránh 5 đối tượng sau đây: Người thân; kẻ thù; người dưng; người khác phái; và người đã chết. Vì đối với người thân thì tâm ta bị ràng buộc nặng nề về đời sống của họ. Còn đối với kẻ thù thì hành giả sẽ dễ nổi sân. Ðối với người dưng, hành giả sẽ khó chú tâm. Ðối với người khác phái, thì hành giả có thể khởi lên tham dục. Ðối với người chết, thì quán niệm khó đạt được kết quả. Thế nên, tốt nhứt là hành giả nên trải tâm từ đến chính bản thân mình và lập đi lập lại như sau: "Mong rằng ta được an lạc, thoát khỏi mọi khổ ách". Kế đến, hành giả nên trải tâm từ đến một giáo thọ sư hay một đồng giáo thọ sư với ước mong: "Mong rằng con người hiền thiện ấy được hạnh phúc an vui, thoát khỏi mọi khổ ách". Hành giả áp dụng phương pháp quán từ tâm như thế rất dễ đạt đến định an chỉ. Khi pháp quán đã tiến triển thuận lợi, hành giả sẽ trải tâm từ đến một người thân, rồi đến một người dưng và cuối cùng là đến kẻ thù.

    (Xua tan tâm hận)

    Nhưng nếu hành giả lấy kẻ thù làm đối tượng để quán từ tâm mà không thể xua tan được những sự hiềm hận đối với họ, thì nên suy nghĩ theo tinh thần Phật dạy:


    "Hận thù diệt hận thù
    Ðời nầy không thể có
    Từ bi diệt hận thù
    Là định luật nghìn thu". (PC. 5)

    Ðồng thời tự cảnh tỉnh mình bằng cách suy nghĩ về những điều mà kẻ thù mong muốn cho kẻ thù mình như sau: "Mong rằng nó xấu xí, mong rằng nó ngủ trong đau khổ; mong rằng nó gặp điều bất hạnh; mong rằng nó bị nghèo khốn; mong rằng nó phải sống trong cô độc; mong rằng sau khi thân hoại mạng chung nó phải sinh vào cõi dữ, ác thú". (A. IV. 94). Bởi vì, nếu ta để cho lòng hận thù cấu xé, thì ta sẽ ngủ không yên, thân thể sẽ trở nên xấu xí và do thế sẽ tự làm hại mình và làm cho kẻ thù được thỏa mãn mà thôi.

    Theo chiều hướng suy nghĩ như vậy mà hận thù lắng dịu thì tốt, bằng không, hành giả nên xóa bỏ mối tức giận kia bằng cách nhớ lại vài ưu điểm nơi người ấy. Vì một người dù ngu si, xấu xa đến đâu cũng sẽ có được vài nét dễ mến.

    Nhưng nếu sự tức giận vẫn khởi lên, mặc dù hành giả đã cố gắng, thì nên tự trách như sau:


    "Cơn giận dữ chưa chắc hại ai
    Nhưng chắc chắn hại ngươi trước nhất
    Kẻ sân trước lên đường đau khổ
    Người sân sau bén gót theo sau".

    Nếu hiềm hận vẫn không giảm, thì hành giả nên nghĩ đến sự thật "Mọi chúng sinh đều là kẻ thừa tự nghiệp quả của chúng" như sau: "Có lợi ích gì khi tức giận như vậy ! Há chẳng phải nghiệp sân nầy của ngươi chỉ đưa đến tai hại cho ngươi? Vì ngươi là sở hữu chủ của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp. Ngươi giống như kẻ tay cầm cục than nóng đỏ, hay cục phân để đánh người, chưa gì, mà chính mình đã cháy và hôi thối ghê tởm". Lại nghĩ: "Kẻ tức giận ngươi sẽ ra sao? Có phải chung cục sẽ đưa đến tai hại cho chính nó? Ðiều đó có khác gì một người đứng ngược gió mà tung bụi vào kẻ khác, cuối cùng chỉ làm cho chính thân mình lấm bụi mà thôi":


    "Nếu hại người lương thiện
    Người thanh tịnh vô nhiễm
    Ác quả sẽ về ta
    Như ngược gió tung bụi". (PC. 125)

    Nhưng nếu hiềm hận vẫn không nguôi, thì hành giả nên nghĩ đến những đức tính đặc biệt của đức Thế Tôn trong những tiền kiếp, như chuyện Bản sinh Khantivàdin kể lại: "Khi vua Kàsi ngu ngốc hỏi Ngài (đang là một tu sĩ): "Nầy sa môn, ngươi giảng về pháp gì thế?" Ngài đáp: "Tôi là người giảng về pháp nhẫn nhục". Nhà vua liền sai quân lính chặt hết tay chân Ngài, nhưng Ngài vẫn tự chế ngự, không khởi lên một niệm sân hận nào hết". (Jà III, 39) Và còn biết bao chuyện Bản sinh khác nói về hạnh nhẫn nhục, từ ái của Phật, khi thì Ngài làm tượng vương, khi thì làm long vương, khi thì làm khỉ chúa v.v... tất cả đều đáng cho chúng ta tìm hiểu để học về hạnh nhẫn nhục của Ðức Ðạo Sư.

    Nhưng, nếu nghĩ những đức tính đặc biệt của Thế Tôn, mà hiềm hận vẫn không lắng dịu, thì hành giả nên đọc lại những kinh đề cập đến vòng sinh tử nối tiếp vô tận, như sau: "Nầy các Tỳ kheo, không dễ gì tìm thấy một chúng sinh nào chưa từng là mẹ ngươi, cha ngươi, anh ngươi, chị ngươi, con trai, con gái ngươi". (S. II. 189) Thế nên, hành giả hãy nghĩ về người kia như sau: "Con người nầy trong quá khứ đã từng làm mẹ ta, cưu mang ta suốt 10 tháng trong bụng, chính tay đã rửa phân, tiểu, sài, đẹn của ta không chút nhờm gớm, nâng niu ta trên gối, ẵm bồng ta bên nách, nuôi nấng ta suốt cả tuổi ấu thơ...", rồi nghĩ rằng người đó hoặc là cha, là anh, chị hay em ta v.v..., cũng bằng cách ấy.

    Nhưng nếu vẫn không dập tắt được hiềm hận bằng cách ấy, thì hành giả nên gợi lại 11 lợi ích của lòng từ mà đức Thế Tôn đã dạy sau đây: "Người tu tập lòng từ sẽ ngủ trong an ổn; thức trong an ổn; không chiêm bao ác mộng; được người khác yêu mến; được phi nhân giúp đỡ; được chư Thiên hộ trì; lửa, khí giới và chất độc không làm hại được; tâm dễ an định; nét mặt thanh thoát; khi chết tâm không rối loạn; và nếu không được đạo quả gì cao siêu, thì ít nhất cũng đuợc tái sinh về cảnh giới Phạm thiên". (A. V. 342)

    Nếu đã áp dụng phương pháp đó mà vẫn không hết tức giận, thì hành giả hãy phân tích tính chất vô ngã nơi người ấy, như sau: "Khi ngươi tức giận kẻ kia, thì cái gì nơi kẻ lấy làm cho ngươi tức giận? Người giận tóc, hay lông, hay móng... hay nước tiểu?" Nếu phân tích con người ấy, về tứ đại, ngũ uẩn, thập nhị xứ hay thập bát giới, ta đều không thấy có một yếu tố nào để kết luận có một ngã thể nơi người ấy. Do thế nên cơn giận không có một chỗ nào để mà đặt chân lên được.

    Nhưng nếu hành giả không thể phân tích được bằng cách ấy, thì nên tìm cách tặng cho người đó một món quà. Khi làm như vậy, sự hiềm hận sẽ có nhiều thuận duyên để lắng dịu.

    Qua các phương thức đã trình bày, thế nào hành giả cũng tìm được một gi?i pháp thích hợp với hoàn cảnh và trình độ của mình để mà tu tập, như Kinh mô tả: "Vị tỳ kheo an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư, trên, dưới, bốn bên, cùng khắp thế giới bình đẳng; vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, chan chứa, cao cả, vô biên, không hận, không não" . (D. I, 250)

    Biến mãn nghĩa là cùng khắp tất cả. Ở đây chỉ cho khắp chủng loại và khắp 10 phương. Chủng loại gồm có 7, đó là: Nữ nhân, nam nhân, các bậc thánh, người phàm tục, chư thiên, nhân loại, và tất cả những chúng sinh ở các đọa xứ. Mười phương là Ðông, Tây, Nam, Bắc, 4 góc và trên dưới. Hành giả phải cầu mong cho 7 chủng loại ở khắp mười phương thoát khỏi hận thù, ưu não, và sống hạnh phúc.

    Từ chúng sinh hay hữu tình được dịch từ chữ Satta có nghĩa là bị giữ lại, hay bị dục vọng tóm lấy, và tham luyến đối với 5 uẩn. Lại còn có mấy từ tương đương khác, như vật có hơi thở (pàna), vì sự hiện hữu của chúng tùy thuộc vào hơi thở vô, hơi thở ra; hữu thể (bhùta), vì có sự hiện hữu, được sinh ra và được trở thành; người (puggala), được dịch âm là bổ-đặc-già-la, nó được cấu trúc từ chữ pum: tên gọi địa ngục, và chữ galanti: rơi vào. Ngoài ra, còn có từ tự ngã (attabhàva), chỉ cho cái thân vật lý, hay cả ngũ uẩn. Tóm lại, từ chúng sinh gồm có các nghĩa: hữu tình, hữu thể, vật có hơi thở, người và tự ngã (Satta, pàna, bhùta, puggala và attabhàva).

    Bản luận kể về trường hợp trưởng lão Visàkha an trú 4 tháng tại tu viện Cittapabbata, tu tập từ tâm được loài phi nhân cảm mến, đến lúc Ngài ra đi, phi nhân ấy khóc lóc, Ngài hỏi vì sao, thì nó nói: "Bạch đại đức, trong lúc Ngài trú tại đây, thì các phi nhân đối xử với nhau ôn hòa và tử tế. Bây giờ Ngài đi, thì chúng sẽ khởi sự gây lộn và nói tục".
    --
    http://www.budsas.org/uni/u-thanhtinh-dao/ttd-08c.htm

    Monday 19 January 2015

    Dấu chân em những ngày



    Đường rừng Điệu Ngộ mùa đông

    ..tặng Mit

    Theo em
    Theo dấu chân loài chim nhỏ
    Đi ra bưu điện
    Nghe giọng nói của em
    Khi đứng trò chuyện với họ
    Ôi những lần chuyển đi
    Mang tấm lòng của em
    Giúp người giúp đời

    Nhớ những đêm khuya mùa đông
    Em đi về lặng lẽ
    Chiếc giày khua đêm lạnh

    Có những stress do công việc
    Những mối lo
    Những điều khó nhọc
    Tâm và thân
    Mới làm nên vật chất
    Đè lên người gái trẻ tha hương
    Giàu nghị lực..

    Thương em,
    Cũng vì điều đó
    Biết ơn và thương!

    Có một điều gì đó
    Cao qúy..

    ĐỗNguyễn

    đừng bao giờ em hỏi vì sao ta yêu nhau.. 

    Tàu đêm

    Có những hôm ít ngủ,
    Thức dậy để đón đưa em về
    Chuyến tàu đêm một mình.

    ĐỗNguyễn

    Sunday 18 January 2015

    5 thien chi- sach da dan

    Vì vậy, khi một người hành thiền đã tập trung, tâm sẽ vững vàng, kiên định và năm chướng ngại được xem như là những trạng thái không tốt của tâm sẽ tự nhiên biến mất. Khi chướng ngại này biến mất, tâm trở nên được tập trung. Tâm không còn khao khát hay thèm muốn những thú vui khoái cảm trong khi thiền định. Tâm không còn nóng giận hay ác cảm, không còn buồn ngủ hay uể oải, bất an hay lo lắng hay nghi ngại. Do đó, tâm trở nên yên tịnh, thỏa mãn và an lành. Trong sự yên tịnh này năm chi của sự thu hút (jhana, thiền-na) phát sanh. Chúng là:
    Vitakka: thường được hiểu như là nổ lực đầu tiên của tâm (Tầm). Ðiều này có nghĩa là tâm đang đánh trúng mục tiêu, đang hướng đúng trực tiếp vào đề mục của thiền định. Tâm không còn đi lang thang nữa.
    Vicara: hay sự duy trì nổ lực của tâm (Tứ). Tức là tâm đang dán chặt vào đề mục, trú ở đó, một trạng thái tác động ngắn nhưng liên tục của sự nhắc đi nhắc lại của tâm, hay tác động lên đề mục. Vitakka lái tâm đi thẳng vào đề mục trong khi vicàra tạo cho tâm tác đ?ng lên đề mục và trú ở đó.
    Dẫn đến kết quả, Pìti (Phỉ) là sự sảng khoái của tinh thần sẽ phát triển. Người hành thiền sẽ cảm giác dễ chịu, nhẹ nhõm. Anh ta tận hưởng những loại cảm giác thích thú khác như là cảm giác rung cảm dễ chịu di chuyển khắp toàn thân. Ðôi khi anh ta có cảm giác lâng lâng Pitì như: tay chân bất chợt giơ lên, nâng lên hay giật giật hay cơ thể của anh ta bay lơ lửng.
    Sukkha (Lạc), hay sự hạnh phúc cũng phát triển. Sukkha này giống như pitì nhưng nhẹ nhàng tao nhã hay cao siêu hơn. Vì vậy khi Sukkha nổi lên thì loại thô thiển pitì sẽ xẹp xuống và người hành thiền cảm thấy rất nhẹ nhàng dễ chịu. Như trong kinh dạy nó là "cảm giác thoải mái lâu dài ngay tức thì". Người hành thiền được mãn nguyện và thoải mái. Ở trạng thái này anh ta không còn tham muốn những cảm giác khoái lạc mà bây giờ có thể được xem là thô thiển và thấp hèn, nóng bỏng và kích động hơn là yên tĩnh và êm dịu giống như là sự hạnh phúc trong thiền định với một tinh thần tráng kiện.
    Ekaggata (Nhất tâm): sự chỉ định vào một đề mục của tâm. Cuối cùng giá trị của ekaggata đã được phát sanh lên. Tâm trở nên kiên định và tĩnh, tập trung vào một đề mục giống như là ngọn đèn rực cháy đều khi không có gió, hay giống như đã được dính chặt vào trụ đá mà không thể nào lay chuyển. Người hành thiền trải qua Ekaggata này có thể thấy rõ tâm anh ta đang kiên định và trở nên tĩnh lặng, giống như trụ đá đã được chôn chặt không thể nào lay chuyển. Năm yếu tố này cũng xuất hiện trong lúc đi vào thiền, thiền định xảy ra trong khoảng chừng của năm thiền chi đó sẽ báo trước sự xuất hiện của Thiền-na, Jhana.

    --
    http://www.budsas.org/uni/u-tamtu/tamtu02.htm

    Che ngu con gian




    1) Qui luật đầu tiên: Chánh niệm.
    2) Tính kiên định trong việc hành trì giữ tâm thanh tịnh.
    3) Xét ví dụ điển hình của Ðức Phật.
    4) Hãy nhận biết rằng tất cả chúng ta một ngày nào đó cũng phải chết.
    5) Hãy nhìn lại bạn về những hậu quả giận dữ nguy hại.
    6) Hãy soi gương.
    7) Hãy nhận biết rằng chúng ta phải làm chủ những hành động của chúng ta.
    8) Hãy xét về những mặt tốt của nó.
    9) Lạnh như băng!
    10) Không một ai tránh thoát khỏi bị khiển trách.
    11) Tại sao chúng ta giận dữ?
    12) Ai nổi giận?
    13) Hãy biết rằng tất cả chúng ta đều là họ hàng với nhau.
    14) Sự tha thứ.
    15) Hãy xét lợi ích của lòng yêu thương nhân ái.
    16) Cho quà
     --
    http://www.budsas.org/uni/u-tamtu/tamtu01.htm

    Không một ai thoát khỏi bị khiển trách.

    Đọc sách



    Không một ai thoát khỏi bị khiển trách.

    ...

    Một lần nọ Ðức Phật nói với đệ tử Atula "Này Atula, sự việc này đã có từ lâu rồi chứ không chỉ của ngày hôm nay; Họ khiển trách anh ta vì anh ta vì anh ta giữ thái độ yên lặng, họ khiển trách anh ta vì anh ta nói quá nhiều, họ khiển trách anh ta vì anh ta nói năng từ tốn; không một ai trên thế gian này không bị khiển trách cả? Nếu chúng ta quan sát bản thân chúng ta, chúng ta thấy rằng điều này hoàn toàn đúng. Không một ai trên thế gian này thoát khỏi bị khiển trách. Chúng ta làm bất kỳ việc gì cũng bị vài người ở đâu đó tìm ra lỗi lầm của chúng ta. Hiểu được bản chất của sự việc như vậy, chúng ta đừng nên khó chịu hay nổi giận khi bị khiển trách.

    Tuy nhiên, những gì chúng ta có thể làm là xem xét những lý do tại sao bị khiển trách. Nếu sự thật là chúng ta sai, thế thì chúng ta từ từ bình tĩnh để sửa sai. Nhưng nếu chúng ta bị khiển trách một cách không đúng, chúng ta không cần rối loạn tinh thần. Chúng ta có thể lý giải cho hành động của chúng ta và tại sao bị khiển trách vô lý. Sau khi làm tất cả những việc chúng ta có thể làm được, chúng ta đừng bận tâm thái quá về điều khiển trách. Chúng ta nên luyện tập tính bình thản, thư thái và suy ngẫm một điều là ngay cả Ðức Phật cũng không thoát khỏi bị khiển trách. Một ví dụ khi Ngài còn tại thế, Ðức Phật bị chỉ trích vì đang ăn thịt, bị người ta cố tình đổ tội giả là có quan hệ với Cinca, và có hành động sát nhân một người nữ qua đường.

    Một điều quan trọng là chúng ta đã làm điều đúng hay chúng ta đã làm tất cả những gì chúng ta có thể. Khi chúng ta làm được như vậy, chúng ta sẽ không bị ai chê trách khi ở đó không có người khôn ngoan hoặc những ai đó hiểu vị trí của chúng ta và lý do của những hành động, sẽ chẳng bao giờ khiển trách chúng ta. Chỉ có những ai ngu ngốc hoặc không hiểu lý do và hoàn cảnh hành động của chúng ta mới khiển trách. Ðúng vậy, đó là một điều không thể tránh khỏi trong cuộc sống; bởi vì chúng ta làm bất cứ việc gì cũng vẫn bị khiển trách hay chỉ trích. Những gì chúng ta có thể làm là cố gắng làm đúng mọi sự việc để giảm nguy cơ bị khiển trách đến mức tối thiểu. Sau cùng, nếu chúng ta vẫn bị khiển trách tức là chúng ta không biết chúng ta có thể làm gì và điều cần thiết để làm nó như thế nào.
    --
    http://www.budsas.org/uni/u-tamtu/tamtu01.htm

    Mit ơi


    Mit ơi,
     
    Hôm nay nghe tin về
    Cậu, ba của Minh Trí mới mất
    Ôi, người thân ra đi

    ĐỗNguyễn 



    Cuộc đời chỉ là cái bóng di động, một diễn viên tồi, vinh váo, cáu kỉnh những giờ diễn của anh trên sân khấu và rồi không còn ai nhắc đến nữa. Ðó là câu chuyện do thằng ngu kể, tràn ngập âm thanh, thác loạn, không có gì đặc sắc cả.- Shakespeare, Macbeth.
    Có những kẻ không biết rằng mọi người sống trong thế giới này rồi cũng phải chết. Còn những kẻ biết, thay vì họ tranh cải thì giữ điềm tĩnh.-- Phật ngôn.

    Die Betrachtungsweise des Arahants ist nicht mehr durch Anhaftung an Gefühl gebunden. Er kann die Dinge aus beliebigen Blickwinkeln betrachten.


    Tỉnh dậy nghĩ về em,
    Vui vui buồn buồn một mình anh,
    Vui em mới về blog!

    Hôm nay ôn anh văn,
    Đọc bài về tâm sân và từ,
    Cài lại vài chương trình

    Nghe nhạc mixen hay,
    Khởi lên ý làm nhạc tình
    Để ca ngợi em, Mit

    Cuộc đời nhiều mong manh,
    Thương em trọn đời còn lại mà
    Cũng chẳng có gì lâu!

    ĐỗNguyễn
    2 hôm chưa thăm rừng Điệu Ngộ.. 


    12 tenses/ English/ Van pham/ Tieng anh/ Dong tu/ Verben


    Tổng quát 12 thì cơ bản trong tiếng Anh goc-tieng-anh

    Nguon: http://oxford.edu.vn/goc-tieng-anh/hoc-tieng-anh-cung-oxford/tong-quat-12-thi-co-ban-trong-tieng-anh-571.html

    Trich:
    Tổng quát 12 thì cơ bản trong tiếng Anh goc-tieng-anh/ - See more at: http://oxford.edu.vn/goc-tieng-anh/hoc-tieng-anh-cung-oxford/tong-quat-12-thi-co-ban-trong-tieng-anh-571.html#sthash.0Bg1Y2U8.dpuf
    ...

    Khi học tiếng anh, các bạn sẽ phải xác định được chính xác và áp dụng các thì khác nhau thì mới có thể sử dụng tiếng Anh thành thạo được
    Oxford English UK Vietnam đưa ra một số lưu ý tổng quát về cách dùng cơ bản nhất của 12 thì trong tiếng anh như sau nhé:




    1. Thì hiện tại đơn:


    Form: 

    (+) S + V/ V(s;es) + Object...

    (-) S + do/ does not + V ?
    (?) Do/ Does + S + V?

    Cách sử dụng:

    - Diễn tả năng lực bản thân:
    VD: He plays tennis very well.
    - Thói quen ở hiện tại:
    VD: I watch TV every night.
    - Sự thật hiển nhiên;Chân lí ko thể phủ nhận:
    VD: The sun rises in the East and set in the West.
    - Diễn tả hành động xảy ra theo lịch trình, thời gian biểu đã định sẵn, đặc biệt là các động từ di chuyển
    VD: The train leaves at 7.00 am in the morning.
    Các trạng từ đi kèm: always; usually; often; sometimes; occasionally; ever; seldom; rarely; every...

    Cách thêm “s,es” vào động từ khi ở thể khẳng định của thì hiện tại đơn:
    - Khi chủ ngữ là "I / You / We / They và các chủ ngữ số nhiều khác” thì giữ nguyên động từ
    - khi chủ ngữ là "He / She / It và các chủ ngữ số ít khác" thêm "s" hoặc "es" sau động từ
    Với những động từ tận cùng bằng "o,x, ch, z, s, sh" thì ta thêm "es" vào sau, còn các động từ khác thì thêm “s”
    Khi động từ tận cùng là "y" thì đổi "y" thành "i" và thêm "es" vào sau động từ

    Cách phát âm s,es:
    /iz/: các động từ kết thúc bằng đuôi: ce, x, z, sh, ch, s, ge
    /s/:các động từ kết thúc bằng t, p, f, k, th
    /z/:không có trong hai trường hợp trên

    2. Hiện tại tiếp diễn:

    Form:

    (+) S + is/am/are + Ving
    (-) S + is/am/are not + Ving
    (?) Is/Am/ Are + S + Ving ?

    Cách sử dụng:

    - Đang xảy ra tại thời điểm nói
    VD: I’m doing my homework at this time.
    - Sắp xảy ra có dự định từ trước trong tương lai gần.
    VD: I’m going to the cinema tomorrow evening
    - Không dùng với các động từ chi giác như: SEE; HEAR; LIKE; LOVE...
    Các trạng từ đi kèm: At the moment; at this time; right now; now; immediately…

    3. Hiện tại hoàn thành:

    Form:

    (+) S + have/has + PII
    (-) S + have/has not + PII
    (?) Have/ Has + S + PII

    Cách sử dụng:

    - Xảy ra trong quá khứ, kết quả liên quan đến hiện tại.( Nhấn mạnh đến kết quả của hành động)
    VD: We have played soccer since we were children.
    -Diễn tả hành động đã xảy ra, hoặc chưa xảy ra ở thời điểm không xác định trong quá khứ
    VD: She has been in China for a long time.
    Các trạng từ hay đi kèm: just; recently; lately; ever; never; already; yet; since; for; so far; until now; up to now; up to present..

    4. Hiện tại hoàn thành tiếp diễn:

    Form:

    (+) S + have/has been + Ving
    (-) S + have/has been + Ving
    (?) Have/Has + S + been + Ving

    Cách sử dụng:

    - Xảy ra trong quá khứ, kéo dài đến hiện tại và có thể tiếp tục xảy ra trong tương lai. ( Nhấn mạnh tính liên tục của hành động)
    VD: I have been eating pizza for 2 hours.
    Các trạng từ đi kèm: just; recently; lately; ever; never; since; for….

    5. Quá khứ đơn: 

    Form:

    (+) S + Ved/ PI-cột 2 trong bảng Động từ bất quy tắc.
    (-) S + didn’t + V
    (?) Did + S + V

    VD: I ate pizza yesterday.

    Cách sử dụng:

    - Xảy ra và chấm dứt hoan toàn trong quá khứ.
    - Nhiều hành động xảy ra liên tiếp trong quá khứ.
    - Trong câu điều kiện loại 2.
    Các trạng tù đi kèm: Yesterday; the day before yesterday; ago; already; last; in + mốc thời gian trong quá khứ.

    Cách đọc ed:
    /id/: t,d
    /t/: c, ch, s, f, k, p x, sh
    /d/: các trường hợp còn lại

    6. Quá khứ tiếp diễn:

    Form:

    (+) S + was/ were + Ving
    (-) S + was / were not + Ving.
    (?) Was/ Were + S + Ving.

    VD: I was eating pizza when you arrived

    Cách sử dụng:

    - Các hành động xảy ra tại 1 thời điểm xác định trong quá khứ
    - Nhiều hành động xảy ra đồng thời trong quá khứ.
    - Một hành động đang xảy ra 1 hành động khác xen vào: hành động đang xảy ra dùng QKTD; hành động xen vào dùng QKĐ.
    Các từ nối đi kèm: While; when.
    VD: I ate pizza yesterday.

    7. Quá khứ hoàn thành:

    Form:

    (+) S + had + PII
    (-) S + had not + PII
    (?) Had + S + PII

    VD: I had eaten all of the pizza when you arrived.

    Cách sử dụng:

    - Một hành động xảy ra trước 1 hành động khác trong QK ( hành động xảy ra trước dùng QKHT; hành động xảy ra sau dùng QKĐ)
    - Hành động xảy ra trước 1 thời điểm xác định trong quá khứ.
    - Trong câu điều kiện loại 3.
    Các trạng từ đi kèm: before; after; when; while; as soon as; by(trước); already; never; ever; until...

    8. Quá khứ hoàn thành tiếp diễn (ít dùng):

    Form:

    (+) S + had been + Ving
    (-) S + hadn’t been + ving
    (?) Had + S + been + Ving

    VD: I had been eating pizza for 2 hours when you arrived.

    Cách sử dụng:

    - Chỉ hành động đã và đang diễn ra và có thể hoàn tất trước 1 hành động khác trong quá khứ ( nhấn mạnh đến tính liên tục của hành động)
    Các trạng từ đi kèm: before; after; when; while; as soon as; by(trước); already; ever; until…

    9. Tương lai đơn:

    Form:

    (+) S + will/ shall + V (will ngày nay có thể dùng với tất cả các
    (-) S + will/ shall not + V ngôi nhưng shall dùng với “ I” và “WE” )
    (?)Will / Shall + S + V

    VD: I will eat pizza tomorrow.

    Cách sử dụng:

    - Sắp xảy ra trong tương lai không có dự định trước.
    - Câu yêu cầu; đề nghị; lời hứa; dự đoán cho tương lai.
    - Trong câu điều kiện loại 1.
    Các trạng từ đi kèm: tomorrow; the day after tomorrow; next; in + thời gian ở tương lai…

    Tương lai gần:

    Form:

    (+) S + is/am/are + going to + V
    (-) S + is/am/ are not + going to + V
    (?)Is/Am/ Are + S + going to + V

    Cách sử dụng:

    - Sắp xảy ra trong tương lai có dự định trước.
    - Chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai theo 1 tình huống cho trước.
    Các trạng từ đi kèm: tomorrow; the day after tomorrow; next; in+ thời gian ở tương lai…

    10. Tương lai tiếp diễn:

    Form:

    (+) S + will / shall + be + Ving
    (-) S + will / shall not + be + Ving
    (?) Will / Shall + S + be + Ving

    VD: I will be eating pizza when you arrive.

    Cách sử dụng:

    - Đang xảy ra tại thời điểm xác định trong tương lai.
    - Nhiều hành động xảy ra đồng thời trong tương lai.
    Các trạng từ đi kèm: các trạng từ như trong tương lai đơn; nhưng phải dựa vào từng hoàn cảnh cụ thể để chia thì.

    11. Tương lai hoàn thành:

    Form:

    (+) S + will / shall + have + PII
    (-) S will/ shall not + have + PII
    (?) Will / Shall + S + have + PII

    VD: I will have eaten all of the pizza by the time you arrive.

    Cách sử dụng:

    - Một hành động xảy ra trước 1 hành động khác trong tương lai.
    - Một hành động xảy ra trước 1 thời điểm xác định trong tương lai.
    Các trạng từ hay đi kèm: By the time; By + mốc thời gian trong quá khứ.

    12.Tương lai hoàn thành tiếp diễn:  

    Form:

    (+) S + will have been + Ving
    (-) S + won’t have been + Ving
    (?) Will + S + have been + Ving

    VD: I will have been eating pizza for 2 hours when you arrive.

    Cách sử dụng:

    - Kết hợp với mệnh đề thời gian ( by the time + thì hiện tại đơn )
    - Diễn tả hành động đã và đang xảy ra và có thể hoàn tất trước 1 hành động khác trong tương lai.




    Em ve tham, ta vui, yen long di ngu som

    Cả tuần không nghe nhau,
    Em có nhớ không em ngày đó
    Mưa phùn bay mau mau!

    Em về blog khuya nay,
    An ủi cho người mãi ngóng chờ,
    Vui, anh đi nghỉ sớm!

    ĐỗNguyễn

    Ruốc



    Hôm nay làm món ruốc,
    Lại nhớ tới em bày hôm nào
    Ăn với cơm mặn mà!

    ĐỗNguyễn

    Em về

    Đêm khuya đèn sáng mãi,
    Chong đèn chờ ngóng ai
    Em đến cười diễm lệ
    Ta vui mãi mấy ngày!

    ĐỗNguyễn
    .. chừ mới về thăm blog :)