Hello Mit,
Để nhớ về lịch sử Trung Quốc là một thách đố thú vị. Do đó từ lâu anh vẫn muốn ghi lại thành một bài viết, gom góp những tài liệu để chép xuống. Sau đây là những góp nhặt, ban đầu chủ yếu dựa vào tự điển Wiki.
http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_Trung_Qu%E1%BB%91c
Sau này, anh sẽ từ từ bổ xung từ những tài liệu khác. Ví dụ, bổ xung về các nhân vật đã sống trong từng triều đại ấy!
ĐỗNguyễn
Lịch sử Trung quốc
1. Tam Hoàng Ngũ Đế
Tam Hoàng Ngũ Đế (
chữ Hán: 三皇五帝) là thời kỳ
lịch sử đầu tiên của
Trung Quốc, và là các vị vua huyền thoại của Trung Quốc trong thời kỳ từ năm 2852 TCN tới 2205 TCN, thời kỳ ngay trước thời
nhà Hạ.
Theo
Sử ký Tư Mã Thiên, ba vị vua là:
Vận Đẩu Xu (運斗樞) và
Nguyên Mệnh Bao (元命苞) cho rằng ba vị là:
Trong đó, Phục Hi và Nữ Oa là thần chồng và thần vợ, được coi là tổ tiên của loài người sau một trận
đại hồng thủy. Cũng như Thần Nông là người đã phát minh ra
nghề nông và là người đầu tiên dùng cây cỏ làm
thuốc chữa bệnh.
Tác phẩm
Kinh Dịch
64 quẻ dịch
được cho là có nguồn gốc từ huyền thoại
Phục Hy (伏羲
Fú Xī). Theo nghĩa này thì ông là một nhà văn hóa, một trong
Tam Hoàng của Trung Hoa thời thượng cổ (khoảng
2852-
2738 TCN, theo huyền thoại), được cho người sáng tạo ra bát quái (八卦
bā gùa) là tổ hợp của ba
hào. Dưới triều
vua Vũ (禹
Yǔ)
nhà Hạ, bát quái đã phát triển thành
quẻ, có tất cả sáu mươi tư quẻ (六十四卦
lìu shí sì gùa), được ghi chép lại trong kinh
Liên Sơn (連山
Lián Shān) còn gọi là
Liên Sơn Dịch. Liên Sơn, có nghĩa là "các dãy núi liên tiếp" trong tiếng Hoa, bắt đầu bằng
quẻ Thuần Cấn (艮
gèn) (núi), với
nội quái và
ngoại quái đều là
Cấn (tức hai ngọn núi liên tiếp nhau) hay là
Tiên Thiên Bát Quái.
2. Nhà Hạ
(
tiếng Trung:
夏朝;
bính âm:
Xià Cháo;
Wade–Giles: Hsia-Ch'ao; khoản thế kỷ 21 TCN - 16 TCN) là triều đại đầu tiên ở
Trung Quốc được mô tả trong các ghi chép sử học cổ đại như
Sử ký,
Trúc thư kỉ niên,
Kinh Thư. Triều đại này được vua
Đại Vũ [1] huyền thoại thành lập sau khi
Thuấn, một trong
Ngũ Đế nhường ngôi cho ông. Nhà Hạ sau này được kế thừa bởi
nhà Thương.
Theo biên niên sử truyền thống dựa trên các tính toán của
Lưu Hâm, nhà Hạ trị vì từ khoảng năm
2205 TCN tới năm
1766 TCN; theo biên niên sử dựa trên
Trúc thư kỉ niên, khoảng thời gian này là từ khoảng
1989 TCN tới
1558 TCN.
Hạ Thương Chu đoạn đại công trình đưa ra các con số tương ứng là
2070 TCN và
1600 TCN. Mặc dù một số học giả từng tranh cãi về sự tồn tại của triều đại này
[2],
nhưng chứng cứ khảo cổ học lại chỉ ra sự tồn tại của nó. Giới sử gia
Trung Quốc coi đây là triều đại đầu tiên của Trung Quốc, sau thời
Tam hoàng Ngũ đế và trước thời
nhà Thương.
Tuy nhiên, người ta có quyền đặt nghi vấn đối với triều đại này vì trên
thực tế, những văn thư đầu tiên của Trung Quốc được viết ra sau triều
đại này cả hơn một nghìn năm.
3. Nhà Thương
(
tiếng Trung Quốc: 商朝,
Thương triều) hay
nhà Ân (殷代,
Ân đại),
Ân Thương
(殷商) là triều đại đầu tiên được công nhận về mặt lịch sử là một triều
đại Trung Quốc. Theo biên niên sử dựa trên các tính toán của
Lưu Hâm thì nhà Thương trị vì từ khoảng năm
1766 TCN tới khoảng năm
1122 TCN, tuy nhiên theo biên niên sử dựa theo
Trúc thư kỉ niên thì khoảng thời gian này là
1556 TCN tới
1046 TCN. Các kết quả của
Hạ Thương Chu đoạn đại công trình coi khoảng thời gian này là từ
1600 TCN tới 1046 TCN.
4. Nhà Chu
(
tiếng Trung:
周朝;
bính âm:
Zhōu Cháo;
Wade–Giles: Chou Ch'ao
[tʂóʊ tʂʰɑ̌ʊ]) nối tiếp sau
nhà Thương và trước
nhà Tần ở
Trung Quốc.
Nhà Chu tồn tại lâu hơn bất cứ một triều đại nào khác trong lịch sử Trung Quốc và
việc sử dụng đồ sắt
cũng đã xuất hiện ở Trung Quốc trong thời kỳ này. Nhà Chu cũng là
khoảng thời gian khi hệ thống chữ viết cổ xuất hiện trên các đỉnh đồng
thời Tây Chu bắt đầu chuyển sang giai đoạn hiện đại, dưới hình thức
những văn bản ghi chép cổ cuối thời
Chiến Quốc.
Nhà Đông Chu
Năm
771 TCN, khi
Chu U Vương phế truất Thân hậu để đưa
Bao Tự
lên thay thế, kinh đô nhà Chu đã bị các lực lượng du mục phía đông bắc
tràn vào cướp phá do sự xúi giục của Thân Hầu (cha Thân hậu). U vương bị
giết và con cả là
thái tử Nghi Cữu được các quý tộc chư hầu
Trịnh,
Tấn,
Tần đưa lên làm vua, tức là
Chu Bình Vương, dời đô về phía đông năm
771 TCN tới
Lạc Dương, tỉnh
Hà Nam
hiện nay. Từ đây bắt đầu giai đoạn Đông Chu, và chỉ kết thúc khi bị nhà
Tần lật đổ vào năm 256 trước Công Nguyên; trong lịch sử Trung Quốc,
giai đoạn này được gọi là "
Thời Xuân Thu" (771-403 TCN) và "
Thời chiến quốc" (403-256 TCN).
Sự phân chia này dựa trên một bộ sử biên niên của Khổng Tử, bộ
Kinh Xuân Thu. Bộ này chép sử
nước Lỗ từ năm thứ nhất đời
Lỗ Ấn Công (722 TCN) đến năm thứ 14 đời
Lỗ Ai Công
(481 TrCN), gồm 240 năm, năm 479 là năm Khổng Tử mất. Nhiều học giả
thấy năm 722 và năm 480 (hoặc năm 479) không đánh dấu một biến cố lớn
lao nào trong lịch sử, nên đã chia lại như sau:
Thời kỳ này của nhà Đông Chu cũng được coi là giai đoạn phát triển
mạnh mẽ nhất của tư tưởng và văn hoá Trung Quốc trong lịch sử. Chính
trong giai đoạn cai trị này của nhà Đông Chu mà những nhà tư tưởng lớn
nhất đã sáng tạo ra những quan niệm khởi đầu về
triết học,
đạo đức,
học thuyết chính trị và văn hoá Trung Quốc.
Ở giai đoạn Xuân Thu (771-403 TCN), Trung Quốc gồm phần lớn là một
nhóm các tiểu vương quốc; chính nhà Chu cũng không bao giờ có đủ quyền
lực quân sự và chính trị để tái chiếm phía tây hay thậm chí là giữ được
quyền kiểm soát các tiểu quốc của mình. Nhược điểm của
phong kiến phân quyền phát tác:
- Nó không thể vững lâu được vì phải dựa vào quyền của thiên tử nhà
Chu. Mà nhà Chu thì phải cắt dần đất đai phong cho các vương hầu công
khanh nên mỗi ngày một hẹp lại, trông vào sự cống hiến của chư hầu thì không được bao nhiêu, do đó quyền lực Thiên tử càng ngày càng yếu đi.
- Chư hầu
trái lại, ở xa kinh đô nhà Chu, tự ý mở mang đất đai, thôn tính kẻ yếu ở
chung quanh, hùng cứ một phương. Vì vậy số bộ lạc cứ giảm dần từ 1600
xuống 1000, 500... 100, mà các chư hầu hùng cường đất đai mỗi ngày một
rộng, hơn cả thiên tử. Những chư hầu nhỏ bị chư hầu lớn ức hiếp, cầu cứu
với thiên tử, thiên tử không cứu nổi, thế là chế độ chỉ còn có cái danh
mà không có cái thực.
Bởi vì sự không ổn định của các tiểu quốc đó, và bởi vì sự xâm lấn
lãnh thổ của các rợ du mục phía nam, các tiểu quốc phải liên minh với
nhau và chấp nhận một số vị bá chủ trên "lãnh thổ" của họ. Vì vậy thời
Xuân Thu là một giai đoạn nguy hiểm và không chắc chắn nhất, trong đó
lãnh thổ bị chuyển dịch tới lui, các cuộc xâm lấn thường xuyên xảy ra và
các liên minh được lập lên rồi lại giải tán với sự nhanh chóng đáng
kinh ngạc.
Danh nhân
a. Lão Tử (
Tiếng Trung: 老子, cũng được chuyển tự thành
Lao Tzu,
Lao Tse,
Laotze,
Laotsu, và một số cách khác) là một nhân vật chính yếu trong
Triết học Trung Quốc, sự tồn tại của ông trong lịch sử hiện vẫn đang còn được tranh cãi. Theo truyền thuyết Trung Quốc, ông sống ở
thế kỉ 6 TCN. Nhiều học giả hiện đại cho rằng ông sống ở
thế kỉ 4 TCN, thời
Bách gia chư tử và thời
Chiến Quốc. Lão Tử được coi là người viết
Đạo Đức Kinh (道德經) - cuốn sách của
Đạo giáo có ảnh hưởng lớn, và ông được công nhận là Khai tổ của
Đạo giáo (Đạo tổ 道祖).
Người ta biết được rất ít về cuộc đời Lão Tử. Sự hiện diện của ông trong
lịch sử cũng như việc ông viết cuốn "Đạo Đức Kinh" đang bị tranh cãi
rất nhiều. Lão Tử đã trở thành một
anh hùng văn hóa quan trọng đối với các thế hệ người Trung Quốc tiếp sau. Truyền thuyết cho rằng ông sinh ra ở huyện Khổ (苦縣) nước
Sở (楚), hiện nay là Lộc Ấp (鹿邑) thuộc tỉnh
Hà Nam, trong những năm cuối thời
Xuân Thu.
Một số truyền thuyết nói rằng khi sinh ra tóc ông đã bạc trắng, vì ông
đã nằm trong bụng mẹ 8 hay 80 năm, điều này giải thích cho cái tên của
ông, có thể được dịch thành "bậc thầy già cả" và "đứa trẻ già".
Danh ngôn
- Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam vạn vật
- Người biết đủ, không bao giờ nhục(tri túc bất nhục)
- Lưới trời lồng lộng, cao mà khó lọt'"Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất"
- Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghị tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh vạn vật...
- Tự biết mình là người sáng suốt. Thắng được người là có sức mạnh. Thắng được mình là kiên cường.
- Đạo khả Đạo phi thường Đạo. Danh khả danh phi thường danh
- Người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên". (đã dịch sang thuần Việt)
b. Khổng Tử (
chữ Hán: 孔子; còn gọi là
Khổng Phu Tử 孔夫子;
27 tháng 8 âm,
551 –
11 tháng 4 479 TCN)
[1] là một nhà tư tưởng,
nhà triết học xã hội nổi tiếng người
Trung Hoa, các bài giảng và
triết lý của ông có ảnh hưởng rộng lớn đối với đời sống và tư tưởng của các nền văn hóa
Đông Á.
Một số danh ngôn khác
- Đừng lo mình không có chức vị, chỉ lo mình không đủ tài để nhận lấy chức vị
- Gỗ mục không thể khắc
- Dùng thì đừng nghi, nghi thì đừng dùng
- Muốn biết người phải nghe họ nói
- Dụng nhân như dụng mộc
- Càng lên cao, chân trời càng xa, tầm mắt càng rộng
- Ngồi bàn tiệc đừng ra vẻ anh hùng, vì rượu đã làm cho lắm người gục ngã.
- Học cho rộng, hỏi cho kỹ, nghĩ cho cẩn thận, phân biệt cho rõ, làm cho hết sức.
- Người quân tử cầu ở mình, kẻ tiểu nhân cầu ở người.
- Học đi với hành, không chỉ nói cho qua chuyện
- Đạo thiên thừa chi quốc, kính sự nhi tín, tiết dụng nhi ái nhân, sử
dân dĩ thời. (Trong việc trị quốc, phải thận trọng không hứa ẩu, biết
đãi người hiền, phải được lòng dân)
- Trị dân dùng pháp chế, hình phạt là chính, dân không dám làm điều
phạm pháp, trị dân dùng đạo đức, dùng phép tắc, lòng tốt và nhân cách sẽ
cảm hoá được dân
- Ngẫm nghĩ việc xưa để hiểu việc nay, hành vi đáng làm thầy người khác
- Biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, vậy mới thật là biết
- Người không có chữ tín, chẳng làm chi nên việc
- Không nhìn điều sai, không nghe điều tầm bậy, không nói điều trái, không làm điều quấy
- Bản thân làm điều phải, không ra lệnh người cũng nghe; không đúng thì có ra lệnh người cũng không nghe
- Tụ họp nhau cả ngày, nói năng tào lao, làm những điều nhỏ mọn, nguy lắm thay!
- Sinh ra mà đã biết, là bậc tiên; học rồi mới biết, là bậc thứ; gặp
cảnh khốn nạn rồi mới chịu học, lại còn thấp hơn nữa. Thấp nhất là gặp
cảnh khốn nạn rồi mà vẫn không chịu học
- No cơm rửng mỡ chẳng có gì để làm. So với giới cờ bạc, họ còn tệ hơn nữa, vì ít ra giới cờ bạc cũng có việc để làm
- Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng vui say mà học.
- Bạn bè giúp ích cho ta có ba hạng, bạn bè làm hại ta cũng có ba
hạng. Bạn ngay thẳng, bạn rộng lượng, bạn nghe biết nhiều, là những
người bạn giúp ích cho ta. Bạn vờ vĩnh, bạn khéo chiều chuộng, bạn khéo
nói, là những kẻ làm hại ta
- Có ba điều ưa thích có ích, có ba điều ưa thích có hại. Ưa thích lễ
nhạc đúng nghi tiết, ưa thích điều thiện của người đạo đức, ưa thích
được nhiều bạn hiền, ba điều đó là có ích. Ưa thích thú vui quá đáng, ưa
thích chơi bời phóng túng, ưa thích yến tiệc, ba điều đó là có hại vậy.
- Ngô thập dựu ngũ nhi chí ư học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất
hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi
tòng tâm sở dục, bất du củ.
c.
Mạnh Tử (
chữ Hán: 孟子; bính âm: Mèng Zǐ; 372–289 trước
công nguyên; có một số tài liệu khác ghi là: 385–303 hoặc 302 TCN) là nhà triết học
Trung Quốc và là người tiếp nối
Khổng Tử.
Mạnh Tử, tên là
Mạnh Kha, tự là
Tử Dư, sinh vào đời vua Liệt Vương,
nhà Chu, quê gốc ở đất Trâu, thuộc nước Lỗ, nay là thành phố
Trâu Thành, tỉnh
Sơn Đông,
Trung Quốc. Ông mồ côi cha, chịu sự nuôi dạy nghiêm túc của mẹ là
Chương thị (người đàn bà họ Chương). Chương thị sau này được biết tới
với cái tên Mạnh mẫu (mẹ của Mạnh Tử). Mạnh mẫu đã ba lần chuyển nhà để
Mạnh Tử được ở trong môi trường xã hội tốt nhất cho việc học tập, tu
dưỡng. Thời niên thiếu, Mạnh Tử làm môn sinh của
Tử Tư, tức là
Khổng Cấp, cháu nội của Khổng Tử. Vì vậy, ông chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tư tưởng
Khổng giáo.
Mạnh Tử là đại biểu xuất sắc của Nho giáo thời chiến quốc, thời kỳ nở
rộ các nhà tư tưởng lớn với các trường phái như Pháp gia, Du thuyết, Nho
gia, Mặc gia...(thời kỳ bách gia tranh minh)và cũng là thời kỳ mà các
tập đoàn phong kiến tranh giành, xâu xé lẫn nhau gây ra các cuộc chiến
tranh liên miên, dân tình vô cùng khổ sở. Tư tưởng của Mạnh Tử phát
triển thêm tư tưởng của Khổng Tử nhưng ông không tuyệt đối hóa vai trò
của ông vua như Khổng Tử, ông chủ trương
dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh, ông cũng là người đưa ra thuyết tính thiện của con người rằng con người sinh ra đã là thiện rồi
nhân chi sơ bản tính thiện, tư tưởng này đối lập với thuyết tính ác của Tuân Tử rằng
nhân chi sơ bản tính ác.
Ông cho rằng "kẻ lao tâm trị người còn người lao lực thì bị người trị".
Học thuyết của ông gói gọi trong các chữ "Nghĩa", "Trí", "Lễ", "Tín".
Ông đem học thuyết của mình đi truyền bá đến vua chúa các nước chư hầu
như
Tề Tuyên Vương
(nước Tề), Đằng Văn Công (nước Đằng), Lương Huệ Vương (nước
Nguỵ)...nhưng không được áp dụng. Về cuối đời ông dạy học và viết sách,
sách Mạnh Tử của ông là một trong những cuốn sách quan trọng của Nho
giáo. Ông được xem là ông tổ thứ hai của nho giáo và được hậu thế tôn
làm "Á thánh Mạnh Tử" (chỉ đứng sau Khổng Tử).
Mạnh Tử đề xuất tư tưởng người quân tử phải có "Hạo nhiên chính khí",
cần "Lấy Đức thu phục người khác", "Người nhân từ khắp thiên hạ không
có kẻ thù nào".
Mạnh Tử cho rằng bản tính của con người lúc ban đầu là Thiện, Đức của
một người là quà tặng của thiên thượng (Trời), và được liên thông với
thiên thượng. Mọi người đều có bản chất tốt và đạo đức, và nếu một người
thủ đức và nỗ lực tu thân, anh ta có thể trở thành người giống như các
vị vua Nghiêu, vua Thuấn. Mạnh Tử chỉ ra rằng để trở thành một con người
có lý niệm, người đó cần phải giữ được 4 tiêu chuẩn, "lòng trắc ẩn,
thuộc về lòng nhân từ; sự hổ thẹn, thuộc về nghĩa khí; tâm khiêm nhường,
thuộc về lễ nghi; tâm thị phi, thuộc về trí tuệ" (trích từ "Cuốn đầu
tay của Công Tôn Sửu" trong ‘các tác phẩm của Mạnh Tử’). Bốn đặc tính
của con người này cùng các hành vi tương ứng của họ trở thành nền tảng
tạo thành bốn đức tính của lòng nhân từ, nghĩa khí, lễ nghi, và trí tuệ.
[5]
Mạnh tử cả đời vững tin vào chân lý, có trí tuệ dồi dào, giỏi trình
bày và phân tích lý luận triết học. Ông kiên định khích lệ người ta làm
điều thiện, lời nói nào cũng có tinh thần cổ vũ và dẫn dắt người ta.
Danh ngôn
- "Nhân tâm nhất tân" (Lòng của người, một mới) - Mạnh Tử viết: Nhân, nhân tâm dã; nghĩa, nhân lộ dã (仁人心也、義人路也), nghĩa là 'Nhân' (yêu người), ấy là lòng của người; 'nghĩa' (lẽ phải chăng) ấy là đường để làm người.
- "Vương đạo lạc thổ" (Đường vua, đất vui) - Mạnh Tử viết: Dưỡng sinh táng tử vô hám, vương đạo chi thủy dã (養生喪死無憾、王道之始也), nghĩa là "Nuôi sự sống, mất sự chết, đừng tiếc, ấy là bắt đầu của Vương đạo".
- "Quân tử tam lạc" (Quân tử, ba vui) - Mạnh Tử viết trong sách "Tận Tâm - Thượng (盡心上)": Phụ
mẫu câu tồn, huynh đệ vô cố, nhất lạc dã. Ngưỡng bất quý ư thiên, phủ
bất tạc ư nhân, nhị lạc dã. Đắc thiên hạ anh tài nhi giáo dục chi, tam
lạc dã (父母俱存、兄弟無故、一樂也。 仰不愧於天、俯不怍於人、二樂也。 得天下英才而教育之、三樂也),
nghĩa là "Cha mẹ đều còn, anh em không bị gì, ấy là vui thứ nhất. Ngửa
mặt lên trời mà không hổ, cúi đầu đối với người mà không thẹn, ấy là vui
thứ nhì. Được và dạy anh tài trong thiên hạ, ấy là vui thứ ba".
- "Nhất thiên vạn thặng" (Một trời, muôn xe) - Thầy Mạnh khuyên: Thị thích vạn thặng chi quân, nhược thích hạt phu (視刺萬乘之君、若刺褐夫) nghĩa là "Giết một ông vua có vạn cỗ xe thì cũng không khác việc giết một kẻ thường dân (làm nhục mình)".
5. Nhà Tần
(
tiếng Trung:
秦朝;
bính âm:
Qín Cháo;
Wade–Giles: Ch'in Ch'ao;
phát âm Tiếng Trung: [tɕʰǐn tʂʰɑ̌ʊ̯]) (
221 TCN -
206 TCN) là triều đại kế tục
nhà Chu và trước
nhà Hán trong lịch sử
Trung Quốc.
Tần (
Qín), có thể là một nguồn gốc của chữ "China" trong các ngôn ngữ Tây phương. Việc thống nhất Trung Quốc năm 221 TCN dưới thời
Tần Thuỷ Hoàng đã đánh dấu sự khởi đầu của
đế quốc Trung Quốc, một giai đoạn chỉ chấm dứt cùng với sự kết thúc của
nhà Thanh năm
1912. Nhà Tần đã để lại một di sản trung ương
tập quyền và một hệ thống
quan liêu sẽ được áp dụng vào những triều đại kế tiếp sau này.
..
Về mặt truyền thống chúng ta đặt sự khởi đầu của
đế chế
Tần vào năm 256 TCN, mặc dù sự thống nhất Trung Quốc chỉ xảy ra vào năm
221 TCN. Vào năm 256 TCN, Tần đã trở thành nước mạnh nhất ở Trung Quốc,
và tới năm 246 TCN, vương triều rơi vào tay một cậu bé mười ba tuổi,
Doanh Chính (Ch’eng). Vì còn nhỏ, hoàng đế cần ở xung quanh các
đại thần Pháp gia thông thái. Cố vấn có nhiều quyền lực và được tin cậy nhất là
Lý Tư, một trong những nhà tư tưởng nền tảng của phái
Pháp gia. Theo sự cố vấn của họ, năm 232 TCN, Doanh Chính (Ch’eng), ở tuổi hai bảy đã bắt đầu một
chiến dịch mạnh mẽ nhằm
thống nhất và
tập trung hoá các
quốc gia phía
bắc. Các nước xung quanh không phải là
đối thủ với sự giàu có và
sức mạnh quân sự của Tần, và tới năm 221 TCN, Doanh Chính (Ch’eng) đã chinh phục toàn bộ các nước phía bắc. Ông lấy danh hiệu
Tần Thuỷ Hoàng Đế, hay "Vị hoàng đế thủy tổ". Dưới sự lãnh đạo của ông, và sự cố vấn của
Lý Tư, Tần Thuỷ Hoàng Đế đã tạo ra kiểu cách một
triều đình được coi là
kiểu mẫu cho mọi
triều đại
tiếp sau của Trung Quốc. Đầu tiên, triều đình được tập trung quanh
hoàng đế. Nhằm tạo thuận lợi cho việc tập trung hoá, nhà Tần thay thế
toàn bộ hệ thống
phong kiến cũ theo đó
lãnh thổ được kiểm soát bởi các
quý tộc ít hay nhiều độc lập bằng một hệ thống quan lại mạnh theo thứ bậc. Tất cả các thành viên của
chế độ quan liêu đó cũng như các bộ trưởng của quốc gia sẽ được chỉ định bởi
triều đình trung ương. Nhằm bẻ gãy quyền lực của tầng lớp quý tộc, ông tịch thu đất đai của họ và phân chia chúng cho
nông dân. Nhằm tạo thuận lợi cho việc
thu thuế, thuế được triều đình thu trực tiếp từ những người
nông dân mà không cần qua tay tầng lớp
quý tộc.
Tuy nhiên, nhà Tần ngoài việc chú trọng đến hành chính của vùng lãnh thổ
phía bắc còn lo nhiều việc khác. Họ tiến về phía Nam và lần lượt chinh
phục các vùng phía nam Trung Quốc tới tận Sông Hồng ở miền bắc
Việt Nam.
6. Nhà Hán
(
Trung văn giản thể:
汉朝;
Trung văn phồn thể:
漢朝;
bính âm:
Hàn cháo;
Wade–Giles: Han Ch'au;
Hán Việt:
Hán triều;;
203 TCN–220) là triều đại thứ hai của Trung Quốc, triều đại trước đó là
nhà Tần (221-207 TCN), và được tiếp nối bởi thời kỳ Tam Quốc (220-280).
Nhà Hán được thành lập bởi
Lưu Bang,
một lãnh tụ khởi nghĩa chống lại sự cai trị của nhà Tần, được biết đến
sau khi qua đời là Hán Cao Tổ. Triều nhà Hán bị gián đoạn bởi
Vương Mãng, một cựu thần nhà Hán, tự lập mình lên làm hoàng đế, thành lập
nhà Tân (9-23). Chính việc này đã chia nhà Hán thành hai giai đoạn: Tây Hán (202 TCN-9 SCN) và
Đông Hán (23-220). Kéo dài hơn bốn thế kỷ nhà Hán được xem như là một triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử Trung Quốc.
[3] Cho đến ngày nay, nhóm dân tộc chiếm phần lớn dân số Trung Quốc cũng tự cho mình là "
người Hán", và chữ viết Trung Quốc cũng được xem là "
Hán tự".
[4]
Danh nhân
Tư Mã Thiên
(
145 TCN –
86 TCN),
tên tự là
Tử Trường, là tác giả bộ
Sử ký (史記); với bộ sử đó, ông được tôn là
Sử thánh, một trong
Mười vị thánh trong lịch sử Trung Quốc.
Ông làm chức Thái sử lệnh (太史令) rồi Trung thư lệnh, đời
nhà Hán.
Sử ký là công trình sử học lớn nhất của
Trung Quốc
và là một trong những quyển sử có tiếng nhất của thế giới. Đặc biệt bộ
sử này còn là một trong những tác phẩm văn học ưu tú của nhân loại. Bộ
sử vĩ đại này miêu tả tổng quát về
lịch sử Trung Quốc bao trùm 2.000 năm từ
Hoàng Đế đến đời
Hán Vũ Đế. Công trình này là nền tảng cho các phát triển sau này trong sử học Trung Hoa.
Sử Ký
Trung văn phồn thể:
史記/史记;
bính âm:
Shǐjì, còn được gọi bằng tên
Sách của ông Thái sử (太史公書, Thái sử công thư) là cuốn sử của
Tư Mã Thiên được viết từ năm
109 TCN đến
91 TCN, ghi lại lịch sử
Trung Quốc từ thời
Hoàng Đế thần thoại cho tới
thời ông sống. Vì là văn bản
lịch sử Trung Quốc có hệ thống đầu tiên, nó ảnh hưởng cực lớn tới việc chép sử và văn chương Trung Quốc sau này, có thể so sánh Tư Mã Thiên với
Herodotus và Sử Ký với cuốn
Historiai của ông (theo quan điểm người phương Tây).
7. Thời kỳ Tam Quốc
(phồn thể: 三國, giản thể: 三国, Pinyin: Sānguó) là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc. Một cách chính xác theo khoa học thì nó bắt đầu vào năm 220 khi nhà Ngụy được thành lập và kết thúc năm 280 khi Đông Ngô sụp đổ và nhà Tây Tấn thống nhất Trung Hoa. Tuy nhiên, nhiều nhà sử học Trung Quốc cũng như nhiều người dân khác cho rằng thời kỳ này bắt đầu năm 190 khi liên minh chống Đổng Trác được thành lập cuối thời nhà Đông Hán.
Trước đó, phần "không chính thức" của giai đoạn này, từ năm 190 đến năm 220,
được đánh dấu bởi sự hỗn loạn của các cuộc giao tranh giữa các phe phái
trong rất nhiều khu vực của Trung Hoa, như các cuộc giao tranh của Tào Tháo, anh em Viên Thiệu - Viên Thuật, Tôn Kiên, Lưu Biểu, Lưu Bị, Đổng Trác, Lã Bố, quân Khăn Vàng v.v. Phần giữa của giai đoạn này, từ năm 220 đến năm 263, được đánh dấu bằng sự giao tranh quân sự và ngoại giao của ba quốc gia thù nghịch còn lại là Ngụy (魏), Thục (蜀) và Ngô (吳). Để phân biệt các quốc gia này với các quốc gia cùng tên nhưng trong các thời kỳ trước đó, người ta đã thêm vào: Ngụy là Tào Ngụy (曹魏), Hán là Thục Hán (蜀漢), và Ngô là Đông Ngô (東吳). Phần cuối cùng của thời kỳ này được đánh dấu bằng việc Ngụy tiêu diệt Thục (năm 263), nhà Tây Tấn thay thế Ngụy (tháng 2 năm 266 theo dương lịch), và Tấn tiêu diệt Ngô (280).
Tam quốc chí (giản thể: 三国志; phồn thể: 三國志; Wade-Giles: Sanguo Chih; bính âm: Sānguó Zhì), là một sử liệu chính thức và có căn cứ về thời đại Tam Quốc của Trung Quốc từ năm 189 đến năm 280, do Trần Thọ (陈寿) biên soạn vào thế kỉ thứ 3. Tác phẩm này hình thành từ các mẩu chuyện nhỏ kể về các nước Ngụy, Thục và Ngô của thời đại này, đồng thời là nền tảng cho cuốn tiểu thuyết lịch sử rất phổ biến là Tam quốc diễn nghĩa được viết vào thế kỉ 14.
Trần Thọ Trung văn giản thể: 陈寿; Trung văn phồn thể: 陳壽; bính âm: Chén Shòu (233 - 297) tự là Thừa Tộ, nguyên quán ở quận Ba Tây[1] (nay thuộc địa cấp thị Nam Sung tỉnh Tứ Xuyên), trước làm quan cho nhà Thục Hán, sau khi Thục Hán diệt vong sang làm quan cho nhà Tây Tấn, là tác giả của bộ chính sử Tam quốc chí.
8. Nhà Tấn
(Trung văn giản thể: 晋朝; Trung văn phồn thể: 晉朝; bính âm: Jìn Cháo; Wade–Giles: Chin⁴-ch'ao², phát âm Tiếng Trung: [tɕîn tʂʰɑ̌ʊ]; 266–420 theo dương lịch), là một trong sáu triều đại tiếp sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do họ Tư Mã thành lập.
Nhà Tây Tấn (西晉) bắt đầu hình thành quyền lực từ
Tư Mã Ý, đại thần nhà
Ngụy thời Tam Quốc. Sau khi Ngụy Minh đế
Tào Tuấn qua đời năm 239, vua nhỏ Tào Phương không có thực quyền, cha con Tư Mã Ý trở thành quyền thần.
Năm 251, Tư Mã Ý chết, hai con
Tư Mã Sư và
Tư Mã Chiêu
thay nhau nắm quyền. Ngay năm sau, Tư Mã Sư phế Vua Ngụy Tào Phương,
lập Tào Mao. Sư qua đời, Tư Mã Chiêu một mình nắm quyền. Năm 260, Tào
Mao muốn trừ khử Chiêu, bị Chiêu ra tay giết và lập Tào Hoán lên thay,
tức Ngụy Nguyên đế.
Sẵn có tiềm lực cả về kinh tế, dân số, về mặt quân sự, họ Tư Mã nắm quyền nước
Ngụy là mạnh nhất trong số ba nước. Nước
Thục và
Ngô có dân cư thưa thớt hơn và ít của cải hơn, do đó dần dần bị nước Ngụy lấn át.
Sau nhiều năm vừa trấn áp sự chống đối của những người trung thành
với nhà Ngụy để củng cố quyền lực, vừa chống trả thành công những cuộc
xâm lấn của Ngô và Thục, họ Tư Mã quyết định đánh Thục khi nước này đã
suy yếu và nội bộ mất đoàn kết.
Năm 263, Ngụy đánh Thục và nhanh chóng tiêu diệt chiếm Thục (đầu năm 264), Vua Thục là Lưu Thiện đầu hàng.
Năm 264, Tư Mã Chiêu qua đời. Con cả Chiêu là Tư Mã Viêm lên thay.
Tào Hoán thiện vị cho Tư Mã Viêm vào ngày Nhâm Tuất (13) tháng 12 năm Ất
Dậu
[1][2] (tức 4 tháng 2 năm 266 theo dương lịch), Tư Mã Viêm lên ngôi hoàng đế vào ngày Bính Dần (17) cùng tháng
[2][3] (tức 8 tháng 2), lập ra nhà Tấn, tức là
Tấn Vũ đế (266-290). Tư Mã Ý được truy tôn làm Tuyên đế, Tư Mã Sư làm Cảnh đế, Tư Mã Chiêu làm Văn đế.
Năm 280,
Tấn Vũ đế chinh phục nốt nước Ngô, bắt Vua Ngô là
Tôn Hạo.
Trung Quốc lại được thống nhất, và Tấn Vũ đế mở rộng quyền lực của mình
về phía bắc đến trung tâm Triều Tiên và phía nam đến hết Giao Châu (
Việt Nam).
Vương Hi Chi (
Hán tự: 王羲之, Bính âm: Wang Xizhi, 303 – 361
[1][2]) tự
Dật Thiếu, hiệu
Đạm Trai, là
nhà thư pháp nổi tiếng thời
Đông Tấn trong
lịch sử Trung Quốc. Ông được nhìn nhận không chỉ là danh nhân thời Đông Tấn mà trong cả lịch sử Trung Quốc.
9. Nam Bắc triều
(
tiếng Trung:
南北朝;
bính âm:
Nánběicháo,
420-
589[chú 1][1]) là một giai đoạn trong
lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi
Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên
Lưu Tống, kéo dài đến năm 589 khi
Tùy diệt
Trần. Về trình tự, thời kỳ Nam Bắc triều nối tiếp thời kỳ Đông Tấn-
Ngũ Hồ thập lục quốc, sau nó là
triều Tùy. Do hai thế lực bắc-nam đối lập trong một thời gian dài, do vậy gọi là Nam Bắc triều. Nam triều (420-589) bao gồm bốn triều đại
[chú 2]: Lưu Tống,
Nam Tề,
Lương,
Trần; Bắc triều (439-589
[chú 1]) bao gồm năm triều đại:
Bắc Ngụy,
Đông Ngụy,
Tây Ngụy,
Bắc Tề,
Bắc Chu.
10. Nhà Tùy hay triều Tùy
(
tiếng Trung:
隋朝;
bính âm:
Suí cháo;
Hán-Việt:
Tùy triều, 581-619) là một
triều đại trong
lịch sử Trung Quốc, kế thừa
Nam-Bắc triều, theo sau nó là
triều Đường. Năm 581,
Tùy Văn Đế Dương Kiên
thụ thiện từ
Bắc Chu Tĩnh Đế mà kiến lập triều Tùy; đến năm 619 thì Hoàng Thái Chủ
Dương Đồng nhường ngôi cho
Vương Thế Sung, triều Tùy diệt vong, vận nước kéo dài 38 năm.
[1]
Từ khi Tùy Văn Đế lên ngôi, triều đình căn cứ theo kinh nghiệm thời
Nam-Bắc triều mà tiến hành cải cách chế độ chính trị, cho xây dựng
Đại Vận Hà
kéo theo sự xuất hiện của rất nhiều thành thị dọc theo kênh, thay thế
phế lập rất nhiều thứ cũ mới. Trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa và ngoại giao, triều Tùy có ảnh hưởng sâu rộng đến triều Đường,
triều Tống, và các triều đại sau này của Trung Quốc.
11. Nhà Đường
(
tiếng Trung:
唐朝;
bính âm:
Táng Cháo,
Hán Việt: Đường triều;
phát âm Tiếng Trung: [tʰɑ̌ŋ tʂʰɑ̌ʊ];
tiếng Hán trung đại: Dâng) (18 tháng 6, 618 - 1 tháng 6, 907) là một
triều đại Trung Quốc tiếp nối sau
nhà Tùy và sau nó là thời kì
Ngũ Đại Thập Quốc. Nhà Đường được gia tộc họ
Lý (李) thành lập. Gia tộc này thâu tóm lấy quyền hành khi
nhà Tùy suy sụp rồi sụp đổ. Triều đại này bị gián đoạn khi Hoàng đế
Võ Tắc Thiên nắm lấy quyền hành và lập ra
nhà Võ Chu (8 tháng 10, 690 - 3 tháng 3, 705). Bà là
nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Nhà Đường với kinh đô
Trường An (là thành phố đông dân nhất thời bấy giờ, nay là
Tây An) được các nhà sử học coi là đỉnh cao trong văn minh Trung Hoa; ngang bằng hoặc vượt trội hơn so với thời kì đầu
nhà Hán — một thời kì hoàng kim của văn minh thế giới.
Nhan Chân Khanh (
giản thể:
颜真卿;
phồn thể:
顏真卿;
bính âm: Yán Zhēnqīng;
Wade-Giles:
Yen Chench'ing,
709–
785) là một
nhà thư pháp Trung Quốc hàng đầu và là một vị quan thái thú trung thành của
nhà Đường trong
lịch sử Trung Quốc. Do được phong chức Lỗ quận công nên đời sau còn gọi ông là
Nhan Lỗ Công.
Trương Húc (張旭, khoảng
658 -
747), tên chữ
Bá Cao (伯高); là
nhà thơ và là
nhà thư pháp nổi tiếng thời
nhà Đường,
Trung Quốc.
12. Ngũ Đại Thập Quốc
Nhà Hậu Tấn (936-947) là một trong năm triều đại, gọi là Ngũ đại trong thời Ngũ đại Thập quốc (907-960) ở Trung Quốc.
(
Trung văn giản thể:
五代十国;
Trung văn phồn thể:
五代十國;
bính âm:
Wǔdài Shíguó, 907-979) là một thời kỳ trong
lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ khi
triều Đường diệt vong, kéo dài đến khi
triều Tống thống nhất
Trung Quốc bản thổ.
Thời kỳ này phân thành Ngũ Đại (907-960) cùng Thập Quốc (907-979). Về
bản chất, Ngũ Đại Thập Quốc là sự tiếp nối của tình trạng
phiên trấn cát cứ
dưới triều Đường và tình hình chính trị hậu kỳ của triều Đường. Sau khi
triều Đường diệt vong, phiên trấn các nơi tự lập quốc, trong đó tại khu
vực
Hoa Bắc, các quốc gia phiên trấn lực mạnh được gọi là Ngũ Đại, trong đó có các chính quyền do tộc
Sa Đà
kiến lập. Năm nước này mặc dù có thực lực lớn mạnh, song vẫn không có
khả năng khống chế toàn bộ Trung Quốc bản thổ, chỉ là triều đình theo
kiểu phiên trấn. Ở các phương khác cũng có một vài chính quyền phiên
trấn xưng đế, một vài chính quyền phụng Ngũ Đại làm tông chủ quốc, trong
đó có mười nước với thời gian tồn tại tương đối lâu dài, quốc lực khá
mạnh, gọi chung là "Thập Quốc". Trong thời kỳ này, thường phát sinh tình
huống phản biến đoạt vị, dẫn đến chiến loạn không ngừng nghỉ, những
người thống trị phần nhiều là trọng võ khinh văn. Trong bối cảnh Trung
Quốc có nội loạn, Khiết Đan Quốc có cơ hội xâm lấn phương Nam,
Liêu Quốc được kiến lập.
[tham 1] Ngũ Đại Thập Quốc là một thời kỳ trọng yếu trong lịch sử Trung Quốc, trong giai đoạn này
Hà Tây và
Tĩnh Hải quân dần dần "ly tâm", Tĩnh Hải quân (
miền Bắc Việt Nam) cuối cùng thoát ly Trung Quốc để trở thành một quốc gia độc lập.
Cựu Đường thư (
tiếng Trung phồn thể: 舊唐書,
giản thể: 旧唐书;
bính âm: Jiù táng shū) là bộ
sách lịch sử nằm trong
24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan
Lưu Hu triều
Hậu Tấn biên soạn. Bắt đầu vào năm
Thiên Phúc thứ sáu (
941)
Tấn Cao Tổ Thạch Kính Đường đời Hậu Tấn lệnh cho
Trương Chiêu Viễn và
Giả Vĩ phụ trách việc biên soạn sách sử về
nhà Đường, dưới sự giám sát sửa chữa của
tể tướng Triệu Oánh. Đến năm
Khai Vận thứ hai đời
Tấn Xuất Đế (
Thạch Trọng Quý), (
945) thì sách viết xong,
[1] ban đầu sách có tên là
Đường thư (唐書/唐书).
[2] Do khi đó
Lưu Hu là tể tướng giám sát việc tu sửa, xuất bản nên người ta coi sách này là do ông chủ biên.
Lưu Hú (
chữ Hán: 劉昫;
bính âm: Liú Xù) (
887 –
946), tự
Diệu Viễn, người
Quy Nghĩa Trác Châu thời
Ngũ Đại Thập Quốc, là nhà chính trị nhà
Hậu Tấn. Thời
Trang Tông nhà
Hậu Đường từng giữ chức
Thái thường bác sĩ,
Hàn lâm học sĩ. Thời Hậu Tấn, làm quan tới chức
Tư không,
Bình chương sự. Năm
Khai Vận thứ hai (
945) đời vua
Hậu Tấn Xuất Đế được mời biên soạn bộ chính sử "
Đường thư" (
Cựu Đường thư) gồm 200 quyển. Thực tế theo giới nghiên cứu cho biết tác giả thực sự của bộ chính sử là
Triệu Oánh.
Nam Đường Hậu Chủ (
chữ Hán: 南唐後主;
937-
978), tên thật là
Lý Dục[1] (
tiếng Trung:
李煜;
bính âm:
Lǐ Yù), còn có tên khác là
Lý Tòng Gia (李從嘉), là vị vua cuối cùng nước Nam Đường thời
Ngũ Đại Thập Quốc trong
lịch sử Trung Quốc. Đồng thời, ông còn là nhà thơ,
từ,
họa sĩ và
nhà thư pháp Trung Quốc
thế kỷ 10[2][3].
13. Nhà Tống
(
tiếng Trung:
宋朝;
bính âm:
Sòng Cháo;
Wade-Giles: Sung Ch'ao;
Hán-Việt: Tống Triều;
phát âm Tiếng Trung: [sʊ̂ŋ tʂʰɑ̌ʊ̯]) là một triều đại cai trị ở
Trung Quốc từ năm
960 đến
1279, họ đã thành công trong việc thống nhất Trung Quốc trong thời kỳ
Ngũ Đại Thập Quốc, và được thay thế bởi nhà Nguyên. Nhà Tống là nhà nước đầu tiên trên thế giới phát hành ra
tiền giấy, và nhà nước Trung Quốc đầu tiên đã thành lập nên lực lượng
hải quân thường trực lâu dài. Triều đại này đã chứng kiến việc lần đầu tiên sử dụng
thuốc súng, cũng như nhận thức về cách sử dụng
la bàn.
Triều nhà Tống được chia thành hai giai đoạn riêng biệt: Bắc Tống và Nam Tống.
Bắc Tống (
tiếng Trung:
北宋,
960-
1127) là giai đoạn khi thủ đô của họ ở thành phố Biện Kinh (nay là
Khai Phong) ở miền bắc và triều đình kiểm soát toàn bộ Trung Hoa.
Nam Tống (
tiếng Trung:
南宋,
1127-
1279)
để chỉ khoảng thời gian khi nhà Tống đã mất quyền kiểm soát phía bắc
cho người Nữ Chân nhà Kim, trong thời gian này triều đình nhà Tống lui
về phía nam sông
Dương Tử và lập kinh đô ở Lâm Ấp (nay là
Hàng Châu).
Mặc dù nhà Tống đã mất quyền cai quản khu vực nền móng của nền nông
nghiệp Trung Hoa quanh dòng sông Hoàng Hà, nhưng nền kinh tế nhà Tống
không nằm trong đống đổ nát, dân số nhà Nam Tống chiếm gần 60% toàn bộ
dân số Trung Hoa thời bấy giờ và nền nông nghiệp cũng trở nên hiệu quả
nhất.
[1]
Triều Nam Tống dành sự ủng hộ đáng kể cho nền hải quân, tạo nên sức
mạnh bảo vệ vùng biển và biên giới đất liền cũng như tiến hành những
nhiệm vụ hàng hải ra nước ngoài.
Tân Đường thư (
chữ Hán giản thể: 新唐书;
phồn thể: 新唐書) là một
sách lịch sử theo
thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử
Trung Quốc (
Nhị thập tứ sử) do
Âu Dương Tu thời
Bắc Tống chủ biên cùng
Tống Kỳ,
Phạm Trấn,
Lữ Hạ Khanh tham gia vào việc viết và biên soạn vào năm
Khánh Lịch thứ 4 (năm
1044), đến tháng 7 năm
Chí Hòa nguyên niên (năm
1054) thì hoàn thành.
Tên gốc ban đầu là
Đường thư, người đời sau để phân biệt với
Cựu Đường thư của
Lưu Hu nhà
Hậu Tấn thời
Ngũ đại thập quốc nên đổi tên bộ chính sử thành
Tân Đường thư.
Âu Dương Tu (
1007 -
1072) có tên tự là
Vĩnh Thúc hiệu "Tuý Ông" là nhà thơ thời
Tống ở
Trung Quốc.
Quê Âu Dương Tu ở Lư Lăng (nay thuộc tỉnh
Giang Tây,
Trung Quốc).
Năm Thiên Thánh thứ 7(1030) đỗ đầu khoa thi tiến sĩ; từng giữ các chức
quan Hàn lâm học sĩ, Xu mật viện phó sứ, Tham tri chính sự... Dưới thời
vua
Tống Thần Tông làm Binh bộ Thượng Thư, khi mất được đặt tên thụy là
Văn Trung.
Âu Dương Tu là một
nhà văn nổi tiếng, một
nhà thơ lớn, một
nhà sử học,
chính trị gia và đồng thời là một nhà làm Từ xuất sắc đời
Tống. Ông là người khai sáng ra thể loại "
thi thoại"(bình luận và ghi chép lại các cuộc bàn luận của các thi nhân,...), cuốn "Lục Nhất thi thoại" là cuốn thi thoại đầu tiên của
Trung Quốc.
[1] Ông còn viết những bài rất nổi tiếng như
Tuý Ông đình kí,
Mai Thánh Du thi tập tự,
Thu thanh phú,
Bằng đảng luận.
Vì thế, Âu Dương Tu tự xưng mình là "Lục nhất cư sĩ" (cư sĩ với 6 cái
"một": một vạn quyển sách, một ngàn thạch văn, một cây đàn, một bàn cờ,
một bầu rượu và một thân già).
Tô Thức (
Chữ Hán: 苏轼,
8/1/1037–
24/8/1101), tự Tử Chiêm, một tự khác là Hòa Trọng, hiệu Đông Pha cư sĩ nên còn gọi là
Tô Đông Pha, là
nhà văn,
nhà thơ nổi tiếng
Trung Quốc thời
Tống. Ông được mệnh danh là một trong
Bát đại gia Đường Tống.
Đông Pha là một nhà thư pháp có bút pháp liệt vào hàng nổi tiếng và có giá trị nhất.
Đông Pha là một họa sĩ nổi tiếng về vẽ trúc và núi. Năm 1065, vào làm
việc ở Sử quán có cơ hội đọc những sách quí và các danh họa tàng trữ ở
bí thư các.
14. Nhà Nguyên
(
tiếng Trung:
元朝;
Hán-Việt:
Nguyên triều, tiếng Mông Cổ cổ:
Dai Ön Yeke Mongghul Ulus;
tiếng Mông Cổ hiện đại:
Их Юань улс[1])), quốc hiệu là
Đại Nguyên, là một
quốc gia do
người Mông Cổ sáng lập tồn tại chính thức từ
1271 đến
1368, cũng thỉnh thoảng được gọi là
nhà Nguyên Mông. Trong
lịch sử Trung Quốc, nó nối tiếp sau
nhà Tống (960-1279) và trước
nhà Minh. Trong khi trên danh nghĩa, họ nắm quyền kiểm soát toàn bộ
Đế chế Mông Cổ (trải dài từ
Đông Âu tới
Trung Đông và
Nga),
Trung Quốc và
Triều Tiên, các vua cai trị Mông Cổ ở
châu Á chỉ quan tâm tới Trung Quốc, và họ không bao giờ chú ý tới những phần khác của
Đế quốc Mông Cổ. Những vị vua kế tục sau này thậm chí còn không lấy danh hiệu
Khakhan (
Khả Hãn) mà tự coi mình là
hoàng đế Trung Hoa.
La Quán Trung tên là
Bản, tên chữ là
Quán Trung, lại có biệt hiệu là "Hồ Hải tản nhân" có thể là người Thái Nguyên (còn có thuyết cho rằng ông là người
Lư Lăng, Tiền Đường,
Đông Nguyên. v. v...). Ông sinh vào cuối đời
Nguyên, mất vào đầu đời
Minh, ước chừng vào khoảng năm
1300 đến năm
1400 giữa thời thống trị của nhà
Nguyên Thuận Đế (
Thỏa Hoàn Thiếp Mộc Nhĩ) và
Minh Thái Tổ (
Chu Nguyên Chương). Có thuyết còn nói rõ rằng ông sinh năm 1328 và mất năm 1398.
[1]
Ông rất có tài văn chương, rất giỏi về
từ khúc,
câu đối, lại viết cả các loại
kịch, nhưng nổi tiếng nhất là về
tiểu thuyết. Ông là tác giả của cuốn tiểu thuyết
Tam Quốc Diễn Nghĩa và còn có thuyết cho rằng: La Quán Trung cũng là một người tham gia soạn và chỉnh biên tác phẩm
Thủy hử, đó là hai cuốn tiểu thuyết trong
Tứ đại danh tác – bốn tác phẩm nổi tiếng nhất trong
văn học cổ điển Trung Hoa. Nhiều sử gia văn học không chắc chắn rằng hai người này là một, hay là tên
Thi Nại Am được dùng làm bút danh của
Thủy Hử
vì tác giả không muốn bị dính líu vào việc chống chính phủ như trong
tác phẩm này. Ông là người đóng góp xuất sắc cho trường phái tiểu thuyết
lịch sử đời
Minh-
Thanh.
Tam quốc chí (
giản thể: 三国志;
phồn thể: 三國志;
Wade-Giles:
Sanguo Chih;
bính âm:
Sānguó Zhì), là một sử liệu chính thức và có căn cứ về thời đại
Tam Quốc của
Trung Quốc từ năm
189 đến năm
280, do
Trần Thọ (
陈寿) biên soạn vào
thế kỉ thứ 3. Tác phẩm này hình thành từ các mẩu chuyện nhỏ kể về các nước
Ngụy,
Thục và
Ngô của thời đại này, đồng thời là nền tảng cho cuốn tiểu thuyết lịch sử rất phổ biến là
Tam quốc diễn nghĩa được viết vào
thế kỉ 14.
Thủy hử hay
Thủy hử truyện (
phồn thể: 水滸傳;
giản thể: 水浒传;
bính âm:
Shuǐhǔ Zhuàn), nghĩa đen là "bến nước", là một tác phẩm trong bốn tác phẩm lớn của văn học cổ điển Trung Hoa, thường gọi là nhóm
Tứ đại danh tác. Tác giả Thủy hử thường ghi là
Thi Nại Am; cũng có người cho là của
La Quán Trung[cần dẫn nguồn]. Truyện được viết dựa theo sách
Đại Tống Tuyên Hòa di sự[1]
Cốt truyện chính là sự hình thành và những thành tích của một nhóm
người chống triều đình mà trở thành giặc cướp, thường gọi là
108 anh hùng Lương Sơn Bạc (cũng ghi là
Lương Sơn Bạt).
Thi Nại Am, (
tiếng Trung: 施耐庵) (
1296? -
1370?) là một
tác giả Trung Quốc, được cho là người biên soạn đầu tiên của
Thủy Hử.
Người ta biết rất ít thông tin về ông. Một số học giả ngày nay nghi ngờ
về sự tồn tại của Thi Nại Am và cho rằng tên gọi này chỉ là bút danh
của
La Quán Trung[cần dẫn nguồn], người cũng được cho là đóng góp trong vai trò người biên tập chính của
Thủy Hử.
15. Nhà Minh
(
Chữ Hán: 明朝;
Hán-Việt: Minh triều), quốc hiệu
Đại Minh (Chữ Hán: 大明), là triều đình phong kiến cai trị
Trung Quốc trong 276 năm (từ
1368 đến
1644) sau khi
nhà Nguyên của
người Mông Cổ
cai trị Trung Quốc sụp đổ. Nhà Minh được miêu tả là "một trong những
thời đại vĩ đại nhất của chính quyền có tổ chức và xã hội ổn định trong
lịch sử nhân loại".
[2] Đây là triều đại phong kiến cuối cùng của Trung Quốc được
người Hán cai trị. Mặc dù thủ đô
Bắc Kinh của nhà Minh thất thủ năm
1644 bởi cuộc bạo động được chỉ huy bởi
Lý Tự Thành (người lập ra nhà
Đại Thuận, sau này
người Mãn Châu chiếm quyền lực và lập ra
nhà Thanh), những triều thần trung thành của nhà Minh vẫn duy trì được ngôi báu, thường gọi là
nhà Nam Minh, kéo dài đến hết năm
1662.
Dưới thời Minh, một Quân đội với lực lượng
hải quân
đông đảo được xây dựng, gồm cả những chiếc thuyền bốn cột buồm với
lượng giãn nước 1.500 tấn và một đội quân thường trực lên tới một triệu
người.
[3] Hơn 100.000 tấn
sắt được sản xuất ra hàng năm tại
Bắc Trung Quốc (khoảng 1 kg trên đầu người), nhiều cuốn sách được in theo kỹ thuật
xếp chữ rời.
Đã có những tư tưởng phán kháng mạnh mẽ trong dân chúng chống lại sự
cai trị của bộ tộc "phi Hán" trong thời nhà Thanh sau đó, và sự tái lập
nhà Minh luôn được kêu gọi thực hiện cho tới khi
Trung Hoa Dân Quốc thành lập.
Tác phẩm
a.
Tây Du Ký (
phồn thể:
西遊記;
giản thể:
西游记;
bính âm:
Xī Yóu Jì;
Wade-Giles:
Hsi Yu Chi), là một trong những
tác phẩm kinh điển trong
văn học Trung Hoa, và được xem là tác phẩm kinh điển nổi tiếng nhất cho thế hệ trẻ
[cần dẫn nguồn]. Được xuất bản với tác giả giấu tên trong những năm
1590 và không có bằng chứng trực tiếp còn tồn tại để biết tác giả của nó, nhưng tác phẩm này thường được cho là của học giả
Ngô Thừa Ân. Tiểu thuyết thuật lại chuyến đi đến
Ấn Độ của nhà sư
Huyền Trang (
Đường Tam Tạng) đi lấy
kinh.
Ngô Thừa Ân (
tiếng Trung phồn thể: 吳承恩; giản thể: 吴承恩;
bính âm: Wú Chéng'ēn) (
1500? hoặc
1506?-
1581), tự Nhữ Trung (汝忠), hiệu Xạ Dương sơn nhân (射阳山人), là một
nhà văn,
nhà thơ Trung Quốc, sống trong thời
nhà Minh.
b.
Nguyên sử (tiếng Trung: 元史, bính âm: Yuán Shǐ) là một tác phẩm do
Tống Liêm (1310-1381) và một số quan lại khác phụng mệnh
Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương biên soạn năm
1370. Do thời gian biên soạn ngắn, nên chất lượng Nguyên sử bị đánh giá là thấp nhất trong
Nhị thập tứ sử. Đến thời sau, Trung Quốc đã phải biên soạn bộ
Tân Nguyên sử để sửa những sai sót của Nguyên sử.
Sách viết về giai đoạn từ
Thành Cát Tư Hãn Thiết Mộc Chân tới
Nguyên Thuận Đế Thỏa Hoàn Thiết Mộc Nhi của
nhà Nguyên trong
lịch sử Trung Quốc và
lịch sử Mông Cổ.
Tống Liêm (
chữ Hán: 宋濂;
bính âm: Song Lian) (
1310 –
1381) là nhà chính trị, nhà sử học, nhà văn, nho sĩ, đại thần cuối thời Nguyên đầu thời Minh, tự
Cảnh Liêm, hiệu
Tiềm Khê,
Vô Tương Cư,
Long Môn Tử,
Huyền Chân Tử, người Phố Giang huyện
Nghĩa Ô tỉnh
Chiết Giang (nay thuộc thôn
Tiềm Khê,
Kim Hoa), từng giữ chức
Hàn lâm, chủ biên bộ "Nguyên sử", sau vì gặp tai họa bị
Minh Thái Tổ phạt đày ra đất
Thục, mắc bệnh chết ở đó.
c.
Kim Bình Mai (金瓶梅, Jīnpíngméi), tên đầy đủ là
Kim Bình Mai từ thoại (
Truyện kể có xen thi từ về Kim Bình Mai); là bộ
tiểu thuyết dài gồm 100 hồi
[1] của
Trung Quốc.
Đây là "bộ truyện dài đầu tiên mà cốt truyện hoàn toàn là hư cấu sáng
tạo của một cá nhân". Trước đó, các truyện kể đều dựa ít nhiều vào sử
sách hoặc truyện kể dân gian, và đều là sự chắp nối công công sức của
nhiều người
[2]. Tên truyện do tên ba nhân vật nữ là
Phan Kim Liên,
Lý Bình Nhi và
Bàng Xuân Mai mà thành.
Theo một số nhà nghiên cứu văn học, thì tác giả là một người ở Sơn Đông không rõ họ tên, có bút hiệu là
Tiếu Tiếu Sinh (có nghĩa là "Ông thầy cười")
[3].
Có thể nói trong các tiểu thuyết viết về "nhân tình thế thái" (nói gọn là "thế tình", tức "tình đời") ở
Trung Quốc, thì đây là truyện có tiếng nhất, đã khiến cho nhiều người bàn luận
[4].
Theo bài tựa của Hân Hân Tử ở trong sách
Kim Bình Mai từ thoại, thì tác giả là
Lan Lăng Tiếu Tiếu sinh (có nghĩa là "Ông thầy cười" ở Lan Lăng) hay nói gọn là
Tiếu Tiếu Sinh.
Song đây chỉ là bút hiệu, còn tên thật của tác giả là gì thì có nhiều lời đồn đoán, như đó có thể là Hân Hân Tử, là
Vương Thế Trinh, hoặc là: Lý Khai Tiên, Triệu Nam Tinh, Tiết Ứng Kỳ,...nhưng tất cả đều không đủ chứng cứ để chắc chắn. Vì vậy, trong cuốn
Vạn Lịch dã hoạch biên, Thẩm Đức Phù chỉ nói tác giả là một "đại danh sĩ" thời Gia Tĩnh (niên hiệu vua
Minh Thế Tông từ
1522 đến
1566). Ý kiến này có thể xác đáng, vì thời gian sáng tác và thời gian sống của tác giả khá ăn khớp nhau.
16. Nhà Thanh
(
tiếng Mãn Châu:
daicing gurun;
tiếng Mông Cổ:
Манж Чин Улс;
chữ Hán: 清朝;
bính âm:
Qīng cháo;
Wade-Giles:
Ch'ing ch'ao; âm
Hán-Việt:
Thanh triều) là một
triều đại do dòng họ
Ái Tân Giác La (
Aisin Gioro) ở
Mãn Châu thành lập, nên còn được gọi là
Đế quốc Mãn Châu. Khi đó, Mãn Châu là một địa danh nằm phía bắc
bán đảo Triều Tiên. Hiện nay, vùng đất này bị phân chia giữa
Viễn Đông Nga và
đông bắc Trung Quốc. Nhà Thanh là triều đại phong kiến cuối cùng trong
lịch sử Trung Quốc và
Mông Cổ.
Từng được người
Nữ Chân xây dựng và tuyên bố là
Hậu Kim Triều năm
1616 tại Mãn Châu,
[1] năm
1636, nó đổi tên thành "Thanh", và mở rộng vào lục địa
Đông Á và các lãnh thổ xung quanh, lập nên
Đại Thanh Quốc (chữ Hán: 大清國; bính âm:
dàqīngguó). Nhà Thanh chinh phục và trở thành triều đình cai trị của:
Trung Quốc (1644-1659),
Đài Loan (1683),
Mông Cổ (1691),
Tây Tạng (1751),
Tân Cương (1759); hoàn thành
cuộc chinh phục của người Mãn Châu.
Minh sử (
chữ Hán: 明史) là một
sách lịch sử theo
thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử
Trung Quốc (
Nhị thập tứ sử) do
Trương Đình Ngọc thời
Thanh viết và biên soạn, công việc biên soạn trải qua một thời gian lâu dài bắt đầu từ năm
Thuận Trị nguyên niên (năm
1645) tới năm
Càn Long thứ 4 (năm
1739) thì hoàn thành, phần lớn việc biên soạn được thực hiện dưới thời
Khang Hy.
Trương Đình Ngọc (
chữ Hán: 張廷玉;
bính âm: Zhang Tingyu) (
29 tháng 10,
1672 (năm
Khang Hy thứ 11) –
30 tháng 4,
1755 (Năm
Càn Long thứ 20)) tự là
Hành Thần, hiệu
Nghiên Trai, tên thụy là
Văn Hòa, người
Đồng Thành An Huy, là
Bảo Hòa Điện Đại học sĩ nhà Thanh,
Quân cơ đại thần,
Thái tử Thái bảo, được phong làm
Tam Đẳng Bá, là nguyên lão phụng sự 3 triều vua, làm quan được 50 năm, đồng thời là chủ biên bộ chính sử
Minh sử.
Hồng lâu mộng Trung văn giản thể:
红楼梦;
Trung văn phồn thể:
紅樓夢;
bính âm:
Hónglóu mèng hay tên gốc
Thạch đầu kí Trung văn giản thể:
石头记;
Trung văn phồn thể:
石頭記;
bính âm:
Shítóu jì là một trong
bốn kiệt tác (
tứ đại kì thư) của văn học cổ điển Trung Quốc (3 kiệt tác kia là
Tam Quốc Diễn Nghĩa của
La Quán Trung,
Tây du kí của
Ngô Thừa Ân và
Thủy Hử của
Thi Nại Am). Tác phẩm được
Tào Tuyết Cần sáng tác trong khoảng thời gian giữa
thế kỉ 18 triều đại
nhà Thanh của
Trung Quốc. Với hơn 100 triệu bản được xuất bản, tiểu thuyết này trở thành một trong những
sách bán chạy nhất của mọi thời đại.
Tác phẩm ra đời vào khoảng giữa thế kỉ XVIII, đời
nhà Thanh, 80 hồi đầu do
Tào Tuyết Cần (曹雪芹) viết, 40 hồi sau do
Cao Ngạc viết thêm và soạn thành sách.
Tào Tuyết Cần (
chữ Hán: 曹雪芹;
bính âm:
Cáo Xuěqín) (
1724? -
1763?), tên thật là
Tào Triêm (曹霑), tự là
Mộng Nguyễn (梦阮), hiệu là
Tuyết Cần,
Cần Phố,
Cần Khê là một
tiểu thuyết gia vĩ đại
người Trung Quốc, tác giả của cuốn tiểu thuyết
Hồng Lâu Mộng, một trong
tứ đại kỳ thư của văn học cổ điển Trung Quốc. Tổ tiên ông vốn là người Hán ở
Liêu Dương, sau đó tổ xa của ông là Tào Tuấn quy hàng
Mãn Châu, nhập tịch
Mãn tộc.
17. Trung Hoa Dân Quốc
(
chữ Hán phồn thể: 中華民國;
chữ Hán giản thể: 中华民国) được thành lập vào năm 1912 và nó quản lý đại lục Trung Quốc cho đến năm 1949, khi bị mất đại lục trong
nội chiến Trung Quốc và rút về
Đài Loan.
[1] Như một thời kỳ của lịch sử Trung Quốc đại lục, nhà nước cộng hoà tiếp nối
nhà Thanh và được kế thừa bởi
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Đại tổng thống lầm thời đầu tiên,
Tôn Trung Sơn chỉ phục vụ một thời gian ngắn.
Quốc Dân Đảng sau đó do
Tống Giáo Nhân
đứng đầu, giành chiến thắng trong một cuộc bầu cử Quốc hội tổ chức vào
tháng 12 năm 1912. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo quân đội của
phe Bắc Dương do Tổng thống
Viên Thế Khải đứng đầu đã giữ quyền kiểm soát chính phủ trung ương. Sau cái chết của họ Viên vào năm 1916,
quân phiệt địa phương đã khẳng định quyền tự chủ.
Năm 1925, Trung Quốc Quốc dân đảng thành lập một chính phủ đối lập gọi là
Chính phủ Quốc dân Trung Hoa Dân Quốc ở khu phía nam của thành phố
Quảng Châu (Canton).
Tân Nguyên sử (
chữ Hán: 新元史) là một
sách lịch sử theo
thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử
Trung Quốc (
Nhị thập tứ sử) do
Kha Thiệu Văn (1850 – 1933, một thành viên của nhóm biên soạn Thanh sử cảo) cuối thời
Thanh đầu thời
Dân Quốc viết và biên soạn, tới năm
1919 thì hoàn thành, bộ Tân Nguyên sử này ra đời nhằm sửa chữa những sai sót từ bộ
Nguyên sử cũ, đến năm
1921 bộ sách được
Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc Từ Thế Xương công nhận là chính sử, đổi
Nhị thập tứ sử thành
Nhị thập ngũ sử.
Kha Thiệu Văn (
chữ Hán: 柯劭忞;
bính âm: Ke Shao Min) (
1848 –
1933) tự
Phượng Tôn, người
huyện Giao Sơn Đông, là
nhà sử học,
nhà quốc học đầu thời
Dân Quốc, từng giữ chức ủy viên ban quản trị và giáo sư trường
Đại học Phụ Nhân Thiên Chúa giáo.
Thanh sử cảo (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu
lịch sử về thời
nhà Thanh, bắt đầu từ khi
Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái tổ) lập ra nhà Thanh vào năm 1616 đến khi
Cách mạng Tân Hợi kết thúc sự thống trị của nhà Thanh vào năm 1911. Thanh sử cảo được xem là một chính sử của Trung Quốc, tương đương với
Nhị thập tứ sử.
Dự án biên soạn bộ tư liệu lịch sử này bắt đầu từ năm
1914. Vào năm đó,
Viên Thế Khải lập ra Thanh sử quán và mời hơn 100 sử gia
Trung Quốc do
Triệu Nhĩ Tốn (趙爾巽) đứng đầu tới cùng biên soạn Thanh sử. Năm
1920, bản thảo sơ bộ lần thứ nhất hoàn thành. Năm
1926, bản thảo đã tu chính được hoàn thành. Tuy nhiên do
chiến tranh khiến cho nguồn
tài chính cho dự án biên soạn bị cắt từ năm
1927, người ta đã gấp rút đưa ra bản thảo để đem in. Năm
1928, Thanh sử được đem in. Năm
1929
được phát hành. Do bị mất nguồn tài chính, dự án buộc phải kết thúc sớm
và kết quả là nó đã không hoàn chỉnh, vẫn còn ở trong giai đoạn sơ
thảo. Các soạn giả công khai thừa nhận rằng bộ sử này còn có nhiều lỗi.
Chính vì vậy bộ Thanh sử này thường được gọi là Thanh sử cảo (cảo nghĩa
là bản thảo).
Đội ngũ biên soạn bộ sử này cũng cố gắng xây dựng một kết cấu giống
các pho chính sử của các triều đại trước, nghĩa là bao gồm 4 phần.
- 本纪 (Bản kí), bao gồm các thông tin liên quan đến các vị hoàng đế nhà Thanh
- 志 (Chí), bao gồm các sự kiện xảy ra
- 表 (Biểu), bao gồm các nhân vật nổi tiếng của thời đại
- 列传 (Liệt truyện), bao gồm các thông tin liên quan đến các nhân vật nổi bật.
Toàn bộ Thanh sử cảo gồm 536 quyển, trong đó phần Bản kí gồm 25
quyển, phần Chí gồm 142 quyển, phần Biểu gồm 53 quyển, phần Liệt truyện
gồm 316 quyển.
Bộ sử này bị phê phán là thiên vị chính quyền Trung Hoa Dân Quốc của Viên Thế Khải trong các nội dung về cuộc
Cách mạng Tân Hợi.
Nó thiếu các thông tin về các nhân vật lịch sử trong cuộc cách mạng mặc
dù họ sinh ra vào trước thời điểm nhà Thanh chấm dứt sự tồn tại. Song
nó lại có khá nhiều thông tin về các nhân vật sinh sau khi nhà Thanh sụp
đổ.
Khoảng 1100 bản của Thanh sử cảo đã được xuất bản. Chính quyền Dân
Quốc đã mang 400 bản tới các tỉnh miền Bắc và biên tập lại hai lần. Do
đó mà Thanh sử cảo có những 3 phiên bản.
Năm
1961, chính quyền
Trung Hoa Dân Quốc tại
Đài Loan đã cho biên soạn bộ Thanh Sử trên cơ sở Thanh sử cảo. Tuy nhiên chính quyền
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại
đại lục không công nhận bộ Thanh Sử là một nguồn
chính sử.
Triệu Nhĩ Tốn (
chữ Hán: 趙爾巽;
bính âm: Zhào Ĕrxùn) (
1844 –
1927) là nhà chính trị, sử gia
cuối thời Thanh đầu thời Dân Quốc, tự "
Công Tương", hiệu "
Dĩ San", là người của
Hán Quân Chính Lam Kỳ, tổ tiên gốc
Thịnh Kinh (nay thuộc
tỉnh Liêu Ninh), quê
Phụng Thiên,
Thiết Lĩnh. được bổ nhiệm làm quan địa phương cuối thời Thanh, từng trấn áp thành công thế lực
cách mạng Tân Hợi trong thời kỳ làm tổng đốc
tỉnh Đông Tam. Sau
cách mạng Tân Hợi ông được chính phủ của
Viên Thế Khải,
Đoàn Kỳ Thụy mời làm chủ biên bộ ‘’
Thanh sử cảo’’. Em trai là
Triệu Nhĩ Phong (趙爾豊) nổi tiếng vì bình ổn
Tây Tạng cuối thời Thanh.
18. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Trong nhiều thập kỷ, trên quan điểm
chính trị,
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa từng được biết đến là một
thực thể chính trị đồng nghĩa với
Trung Quốc lục địa. Về mặt
lịch sử, cái tên đó bao hàm những
giai đoạn lịch sử gần đây nhất trong
lịch sử Trung Quốc nối tiếp sau các
chế độ phong kiến kéo dài hàng nghìn năm và
nền Cộng hoà. Kỷ nguyên chính thức khởi đầu tại Trung Quốc vào ngày
1 tháng 10 năm
1949, sau một chiến thắng toàn diện trong
Nội chiến Trung Quốc,
Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên Quảng trường
Thiên An Môn. Kỷ nguyên hiện được gọi là
Lịch sử Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Vì thế, giai đoạn lịch sử này kéo dài từ năm 1949 đến hiện nay và bao
gồm cả những thập kỷ tranh chấp chính trị, kinh tế và cải cách xã hội,
cũng như nhiều phong trào gây ảnh hưởng cả bên trong cũng như trên phạm
vi quốc tế.
19. Trung Hoa Dân Quốc
(
Trung văn giản thể:
中华民国;
Trung văn phồn thể:
中華民國;
Hán ngữ bính âm:
Zhōnghuá Mínguó;
Bính âm thông dụng: Jhonghuá Mínguó) là một
quốc gia thuộc
Đông Á. Lãnh thổ của nó đã từng bao trùm toàn cõi
Trung Quốc, sau lệnh ngưng bắn tạm thời trong cuộc
Nội chiến Trung Quốc, vào năm
1949 phe cộng sản đã nắm quyền kiểm soát
Trung Hoa đại lục, hiện Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) chỉ quản lý các đảo
Đài Loan,
Bành Hồ,
Kim Môn và
Mã Tổ. Kể từ cuối
thập niên 1990, Trung Hoa Dân Quốc thường được gọi là "
Đài Loan" (台灣), và kể từ cuối
thập niên 1970 tên "Trung Quốc" đã được sử dụng nhiều hơn để chỉ
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại đại lục Trung Quốc. Vì những
lý do chính trị, Trung Hoa Dân Quốc đôi khi còn được các tổ chức quốc tế gọi là "
Trung Hoa Đài Bắc" (中華台北).