Nội dung: Thơ, hình ảnh, âm nhạc, tâm tình, tình yêu, triết lý mà Đổ-Nguyễn và bè bạn quan tâm. Mong có feedback của các bạn ghé thăm blog.Cám ơn các bạn và chúc an vui nhé!/ ĐN
Monday, 25 December 2017
Friday, 22 December 2017
Saturday, 16 December 2017
Sach va mu
Mua sách
Niềm vui có được các sách nghệ thuật
Thật là tuyệt vời!
Hôm nay mua được cuốn sách nấu ăn:
Cách làm sauce
Cách làm món ăn với cá hồi/lachs
Trời mùa đông giá lạnh
Anh ta mua được cái mũ lông kiểu Bắc âu rất ấm!
Về đến nhà
Bưng sách lên tầng bốn
Tuy vậy, rất vui!
Nằm nghỉ
Để rồi lại đi ra làm việc,
Du sao,
Hôm nay rất vui!
ĐN
Thursday, 14 December 2017
Nam mo thay ban H.
Brisbane
Nằm mơ về H.
Bình thường cũng ít có dịp nghĩ về nó
Vậy mà
Bổng dưng khi ngủ sáng nay
Lại mơ về nó và gia đình nó
Ngày xưa
Cùng sống và học chung ở uni này
Sinh hoạt
Hội thảo
Trang hoàng cho các fest
Thường bên nhau
Trước khi đi nó đi Úc
Còn gặp nhau
Cùng đi ăn chung
Bây giờ
Nó còn bên ấy
Và mình
Vẫn còn đây
Nơi thành phố Uni xưa kia
Giấc mơ
Nó đã về
Có lẽ
Các kí ức
nằm ở tầng tiềm thức
vẫn hoạt động
ĐN
Monday, 11 December 2017
Anh ban ten Chi'
Nhớ anh bạn tên Chí
Nhiều khi ăn món tỏi sống, anh ta lại nhớ đến Chí.
Chi khi đó làm nhà hàng, anh Chí băn khoăn là làm sao bóc được tỏi.
Ngày ấy anh ta không trả lời được.
Bây giờ, mỗi khi cần bóc tỏi, anh ta đã biết rồi.
Anh ta vẫn dùng đồ dùng ép chanh để lột vỏ tỏi.
ĐN
Chí xưa học hàng không,
sau đó anh ta lại đi học nấu ăn.
Chí đã chết vì bệnh khi còn khá trẻ
Chicken Wings
Burger King
Mc Donald
KFC
Bahnhof kiếm Chicken Wings
Cái tiệm Mc Donald
Có một hai điều cần học:
Họ quảng cáo tốt:
Ví dụ quảng cáo ở Bahnhof
Cho Mc Donald tại đấy!
Món Chicken Wings
Chổ kia bán gần 5 Euro
Họ bán ít hơn,
Chỉ trên 3 Euro
Do đó dể mua hơn!
Nếu anh mua nhiều thứ
Thường kết hợp
Sẽ rẻ hơn!
ĐN
Monday, 27 November 2017
di bo
Đi bộ
Không có xe
Thì phải đi bộ
Có xe Vespa
Sau khi đã đem về
Muốn đi bộ
Khó hơn nhiều
Đơn giản là vậy
Nhắc nhở chi cho mệt,
Không có xe,
Tự nhiên phải đi bộ :)
ĐN
Friday, 24 November 2017
Luat tho Luc bat
Trich: (1)
Thơ Lục Bát
Để
giúp một số bạn đọc trẻ tuổi là học sinh, sinh viên… cùng những người
mới tập làm thơ lục bát có thêm sự rành rẽ về luật thơ lục bát, người
biên soạn xin được giới thiệu bài nói về luật thơ... dùng cho người mới
tập làm thơ, chứ tuyệt nhiên không dám múa rìu qua mắt các thợ thơ.
Những chi tiết trong bài viết này là tổng hợp, chọn lọc, biên soạn từ
nhiều tài liệu tham khảo khác nhau, cũng có thể dùng nguyên câu chữ của
một tác giả khác... Các ví dụ cốt minh họa cho sát vấn đề nêu ra chứ
không đề cập tới yếu tố hay hoặc dở. Rất mong được quý bạn đọc góp ý, bổ
khuyết.
1 - Vần tiếng Việt:
Vần là yêu cầu tối quan trọng đối với thơ lục bát nên cần nắm sơ qua về “vần” tiếng Việt.
+ Tiếng việt có các vần sau:
+ Vần tiếng Việt bắt đầu bằng các nguyên âm, là nguyên âm hoặc nguyên âm ghép với các phụ âm đơn hoặc phụ âm kép.
Ví dụ: Từ TA có vần là A là nguyên âm A.
Từ THAN có vần là AN là nguyên âm A ghép với phụ âm đơn N.
Từ THANH có vần là ANH là nguyên âm A ghép với phụ âm kép NH.
+ Vần tiếng Việt nếu có hai nguyên âm đứng đầu thì tính cả hai nguyên âm đó. Ví dụ: Từ TOANH có vần là OANH.
Tuy nhiên cũng có trường hợp lại chỉ tính từ nguyên âm thứ hai. Việc xác định vần trong trường hợp này nên tra cứu bảng thống kê vần trên đây để tham khảo. Ví dụ:
- Từ “quện” có vần là “ên” chứ không phải “uên” vì trong bảng tra vần không có vần “uên”.
- Từ “giang” có vần là “ang” chứ không phải “iang” vì trong bảng tra vần không có vần “iang”.
2 - Các loại vần trong thơ lục bát:
- Một cặp thơ lục bát gồm hai câu: câu đầu 6 từ, câu hai 8 từ.
- Thơ lục bát có các loại vần sau:
Mỗi vần có hai dạng là VẦN BẰNG và VẦN TRẮC tùy thuộc vào các thanh (còn gọi là dấu) kèm theo nó. Ví dụ: vần “an” có “an”, “àn” là vần bằng, “án”, “ản”, “ãn”,“ạn” là vần trắc.
+ Vần bằng: là vần không có thanh và vần có thanh huyền (tức dấu huyền). Ví dụ:
+ Vần bằng trong thơ lục bát: Từ thứ 6 câu lục và từ thứ 8 câu bát thường là vần bằng. Vần được nối tiếp từ vần chân câu lục sang vần lưng (tức vần yêu) của câu bát. Vần chân câu bát lại nối tiếp hiệp vần với vần chân câu lục tiếp sau...
+ Vần trắc: là các vần có một trong các thanh: sắc, hỏi, ngã, nặng. Ví dụ:
+ Vần chân: là vần ở cuối câu lục và cuối câu bát. Ví dụ:
+ Vần chính và vần phụ: Vần gieo ở câu trước là vần chính, vần gieo ở câu sau là vần phụ. Nếu vần câu sau cùng vần với vần câu trước thì cũng là vần chính.
+ Vần yêu: Là vần ở giữa câu bát, thường là vần ở từ thứ 6, nếu vần rơi vào từ thứ 4 thì từ thứ 6 phải chuyển ngược thanh với từ thứ 4. Ví dụ:
+ Phong yêu (lưng ong): Trong một câu mà vần lưng và vần chân đều cùng một vần thì gọi là phong yêu. Cần tránh phong yêu vì đọc lên nghe không hay. Ví dụ:
A - Mô hình:
Các từ số: 1 2 3 4 5 6 7 8
Câu lục 1: + B + T + B
Câu lục 2: + T T + + B
Câu bát 1: + B + T + B + B
Câu bát 2: + T + B + T + B
(Ký hiệu: B là thanh bằng, T là thanh trắc, + là tự do.)
B – Luật bằng trắc trong thơ lục bát:
- Các từ 2, 4, 6, 8 phải luôn đúng luật bằng trắc (xem mô hình trên).
- Các từ 2, 4 câu lục phải niêm với các từ 2, 4 câu bát.
- Từ thứ 2 câu lục và câu bát phải là thanh bằng. Trường hợp bố trí từ thứ 2 câu lục là thanh trắc thì phải đưa vềdạng tiểu đối. Tức là chia câu lục làm 2 về, mỗi vế 3 từ, đối nhau. Từ thứ 2, 3 phải là thanh trắc, từ thứ 6 phải là thanh bằng (như mô hình câu lục 2). Ví dụ:
- Từ thứ 4 câu lục và câu bát phải là thanh trắc. Để câu thơ cân đối thì từ thứ 4 phải là thanh trắc (để gánh hai thanh bằng ở từ thứ 2 và 6). Nếu ở câu bát đã gieo vần lưng vào từ thứ 4 là thanh bằng thì từ thứ 6 phải dùng thanh trắc.
- Muốn câu thơ có nhạc thì ở câu bát phải bố trí từ thứ 6 thanh không (không dấu) và từ thứ 8 thanh huyền hoặc ngược lại. Nếu bố trí cả hai từ này cùng một thanh huyền (hoặc cùng thanh không) thì câu thơ đọc lên mất tính nhạc. Ví dụ:
Hỏi thăm cô ấy có chồng chưa nào?
4 - Họa thơ lục bát:
- Khi họa thơ lục bát cần tuân thủ nghiêm yêu cầu: Từ thứ 5, 7 ở câu bát và từ thứ 5 câu lục không được trùng với bài xướng.
- Khi họa nguyên vận thơ lục bát phải dùng đúng vần (cả vần chân và vần lưng) với bài xướng. Nhưng cũng có thể chỉ họa đúng vần chân cho dễ hơn...
5 - Tập Kiều và lẩy Kiều:
- Tập Kiều là lấy nguyên văn câu lục và câu bát ghép lại với nhau thành một bài thơ lục bát hoàn chỉnh. Chú ý: không được thay đổi một từ nào, cũng không được lấy cả cặp câu lục bát liền nhau.
- Lẩy Kiều là mượn từng câu trong Truyện Kiều, có sửa đổi đôi chút, rồi ghép lại thành một bài thơ có nội dung định thể hiện, không bắt buộc phải giữ nguyên vần.
6 - Tiểu đối:
Thơ lục bát không bắt buộc phải dùng tiểu đối. Nhưng nếu sử dụng thì ở câu lục chia hai phần phải đối nhau toàn diện (thanh, ý, từ). Còn câu bát cũng chia hai phần chỉcần đối ý, riêng từ thứ 4 và từ thứ 8 phải đối cân cả thanh và ý.
--
(1)
http://lucbat.com/news.php?id=9574
1 - Vần tiếng Việt:
Vần là yêu cầu tối quan trọng đối với thơ lục bát nên cần nắm sơ qua về “vần” tiếng Việt.
+ Tiếng việt có các vần sau:
a ac ach ai am an ang anh ao ap at au ay ăc ăm ăn ăng ăp ăt âc âm ân âng âp ât âu ây |
e ec em en eng eo ep et ê êc êch êm ên êng ênh êp êt êu i ia ich iêc iêm iên iêng iêp iêt iêu im in inh ip it iu |
o oa oac oach oai oam oan ang oanh oao oap oat oay oăc oăm oăn oăng oăp oăt oc oe oec oem oen oeng oeo oep oet oi om on ong ooc oong op ot |
ô ôc ôi ôm ôn ông ôông ôp ôt ơ ơc ơi ơm ơn ơng ơp ơt |
u ua uân uâng uât uây uc uê uêch uênh ui um un ung uôc uôi uôm uôn uông uôt uơ up ut uy uya uych uyêc uyên uyêt uym uyn uynh uyp uyt uyu |
ư ưa ức ưi ưm ưn ưng ước ươi ươm ươn ương ươp ươt ươu ưt ưu y ych yêm yên yênh yêt yêu ym yn ynh yp |
+ Vần tiếng Việt bắt đầu bằng các nguyên âm, là nguyên âm hoặc nguyên âm ghép với các phụ âm đơn hoặc phụ âm kép.
Ví dụ: Từ TA có vần là A là nguyên âm A.
Từ THAN có vần là AN là nguyên âm A ghép với phụ âm đơn N.
Từ THANH có vần là ANH là nguyên âm A ghép với phụ âm kép NH.
+ Vần tiếng Việt nếu có hai nguyên âm đứng đầu thì tính cả hai nguyên âm đó. Ví dụ: Từ TOANH có vần là OANH.
Tuy nhiên cũng có trường hợp lại chỉ tính từ nguyên âm thứ hai. Việc xác định vần trong trường hợp này nên tra cứu bảng thống kê vần trên đây để tham khảo. Ví dụ:
- Từ “quện” có vần là “ên” chứ không phải “uên” vì trong bảng tra vần không có vần “uên”.
- Từ “giang” có vần là “ang” chứ không phải “iang” vì trong bảng tra vần không có vần “iang”.
2 - Các loại vần trong thơ lục bát:
- Một cặp thơ lục bát gồm hai câu: câu đầu 6 từ, câu hai 8 từ.
- Thơ lục bát có các loại vần sau:
Mỗi vần có hai dạng là VẦN BẰNG và VẦN TRẮC tùy thuộc vào các thanh (còn gọi là dấu) kèm theo nó. Ví dụ: vần “an” có “an”, “àn” là vần bằng, “án”, “ản”, “ãn”,“ạn” là vần trắc.
+ Vần bằng: là vần không có thanh và vần có thanh huyền (tức dấu huyền). Ví dụ:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”
thì từ “ta”, “nhau” có vần không thanh (không dấu). Còn từ “là” có vần có thanh huyền (dấu huyền).+ Vần bằng trong thơ lục bát: Từ thứ 6 câu lục và từ thứ 8 câu bát thường là vần bằng. Vần được nối tiếp từ vần chân câu lục sang vần lưng (tức vần yêu) của câu bát. Vần chân câu bát lại nối tiếp hiệp vần với vần chân câu lục tiếp sau...
+ Vần trắc: là các vần có một trong các thanh: sắc, hỏi, ngã, nặng. Ví dụ:
Tò vò mà nuôi con nhện
Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi
Các
từ “nhện” và “quện” mang vần trắc. Trường hợp này rất ít khi dùng. Nếu
sử dụng thì bao giờ từ thứ 6 của câu lục và câu bát cũng đều phải dùng
thanh trắc.+ Vần chân: là vần ở cuối câu lục và cuối câu bát. Ví dụ:
Một đời đuổi bóng bắt hình
Tóc sương mới ngộ ra mình ngu ngơ.
Thì vần “inh” trong từ “hình” ở câu lục, vần “ơ” trong từ “ngơ” ở câu bát là các vần chân.+ Vần chính và vần phụ: Vần gieo ở câu trước là vần chính, vần gieo ở câu sau là vần phụ. Nếu vần câu sau cùng vần với vần câu trước thì cũng là vần chính.
+ Vần yêu: Là vần ở giữa câu bát, thường là vần ở từ thứ 6, nếu vần rơi vào từ thứ 4 thì từ thứ 6 phải chuyển ngược thanh với từ thứ 4. Ví dụ:
Yêu em anh nắm cổ tay
Anh hỏi câu này có lấy anh không.
+ Điệp vận: Vần tiếp sau giống hệt vần trước.+ Phong yêu (lưng ong): Trong một câu mà vần lưng và vần chân đều cùng một vần thì gọi là phong yêu. Cần tránh phong yêu vì đọc lên nghe không hay. Ví dụ:
Cả đêm thao thức bồn chồn
Râm ran tiếng mõ dập dồn đầu thôn.
+
Lạc vận: Là vần chân câu lục sang vần lưng câu bát, vần chân câu bát
sang vần chân câu lục tiếp theo lại không cùng vần, đọc nghe mất âm
điệu. Ví dụ:
Mang danh kẻ sĩ Bắc Hà
Lại chui vỏ ốc, lại chuồn đi đâu.
+
Vần thông và lân vận (vần ép): Các vần nối tiếp nhau phải cùng vần (vần
chính), nếu vần tiếp theo khác hẳn vần chính thì lạc vận, nếu gần giống
vần chính thì gọi là lân vận, nếu vần đọc lên nghe na ná vần chính thì
gọi là vần thông (vần phụ). Ví dụ:
Lù lù ngồi giữa công đường
Ra oai có vẻ ông hoàng ta đây.
3 - Luật bằng trắc trong thơ lục bát:A - Mô hình:
Các từ số: 1 2 3 4 5 6 7 8
Câu lục 1: + B + T + B
Câu lục 2: + T T + + B
Câu bát 1: + B + T + B + B
Câu bát 2: + T + B + T + B
(Ký hiệu: B là thanh bằng, T là thanh trắc, + là tự do.)
B – Luật bằng trắc trong thơ lục bát:
- Các từ 2, 4, 6, 8 phải luôn đúng luật bằng trắc (xem mô hình trên).
- Các từ 2, 4 câu lục phải niêm với các từ 2, 4 câu bát.
- Từ thứ 2 câu lục và câu bát phải là thanh bằng. Trường hợp bố trí từ thứ 2 câu lục là thanh trắc thì phải đưa vềdạng tiểu đối. Tức là chia câu lục làm 2 về, mỗi vế 3 từ, đối nhau. Từ thứ 2, 3 phải là thanh trắc, từ thứ 6 phải là thanh bằng (như mô hình câu lục 2). Ví dụ:
Đi vạn dặm, viết nghìn trang
Khơi trong gạn đục vẻ vang một đời.
Chú
ý: Từ số 5 câu lục nên dùng thanh bằng để đảm bảo đối cho cân, trường
hợp hãn hữu mới dùng thanh trắc. Ví dụ:“Khi tựa gối, khi cúi đầu”... Nếu
làm thơ nghệthuật quyết không dùng trường hợp hãn hữu này.- Từ thứ 4 câu lục và câu bát phải là thanh trắc. Để câu thơ cân đối thì từ thứ 4 phải là thanh trắc (để gánh hai thanh bằng ở từ thứ 2 và 6). Nếu ở câu bát đã gieo vần lưng vào từ thứ 4 là thanh bằng thì từ thứ 6 phải dùng thanh trắc.
- Muốn câu thơ có nhạc thì ở câu bát phải bố trí từ thứ 6 thanh không (không dấu) và từ thứ 8 thanh huyền hoặc ngược lại. Nếu bố trí cả hai từ này cùng một thanh huyền (hoặc cùng thanh không) thì câu thơ đọc lên mất tính nhạc. Ví dụ:
Hỏi thăm cô ấy có chồng chưa nào?
4 - Họa thơ lục bát:
- Khi họa thơ lục bát cần tuân thủ nghiêm yêu cầu: Từ thứ 5, 7 ở câu bát và từ thứ 5 câu lục không được trùng với bài xướng.
- Khi họa nguyên vận thơ lục bát phải dùng đúng vần (cả vần chân và vần lưng) với bài xướng. Nhưng cũng có thể chỉ họa đúng vần chân cho dễ hơn...
5 - Tập Kiều và lẩy Kiều:
- Tập Kiều là lấy nguyên văn câu lục và câu bát ghép lại với nhau thành một bài thơ lục bát hoàn chỉnh. Chú ý: không được thay đổi một từ nào, cũng không được lấy cả cặp câu lục bát liền nhau.
- Lẩy Kiều là mượn từng câu trong Truyện Kiều, có sửa đổi đôi chút, rồi ghép lại thành một bài thơ có nội dung định thể hiện, không bắt buộc phải giữ nguyên vần.
6 - Tiểu đối:
Thơ lục bát không bắt buộc phải dùng tiểu đối. Nhưng nếu sử dụng thì ở câu lục chia hai phần phải đối nhau toàn diện (thanh, ý, từ). Còn câu bát cũng chia hai phần chỉcần đối ý, riêng từ thứ 4 và từ thứ 8 phải đối cân cả thanh và ý.
Trần Mỹ Giống
--
(1)
http://lucbat.com/news.php?id=9574
Tuesday, 21 November 2017
nghe coi tau o S.
Si 1
Đi xem triễn lãm
Gặp Cy Twombly
Các radieung đơn giản
Và gặp Rauschenberg
Còn si Marylin Monroe
Thấy Pollock ngồi vẽ
Và Ngộ mới thức dậy
Nghe còi tàu xa xa
ĐN
mới vẽ
Friday, 17 November 2017
Hau qua cua bao lut que nha
Hậu quả của bão lụt quê mình
Những ngày bão lụt tạm đã qua
Nước dù đã vào đến sân
Còn rút đi
Và sân được quét trỡ lại
Nhưng những mất mát kia
Của em tôi
Không thể sửa chữa được!
ĐN
thương quá
Những ngày bão lụt tạm đã qua
Nước dù đã vào đến sân
Còn rút đi
Và sân được quét trỡ lại
Nhưng những mất mát kia
Của em tôi
Không thể sửa chữa được!
ĐN
thương quá
Sunday, 12 November 2017
Quet san sau mua lu
quét sân
Quét sân sau mùa lũ
Sân còn bừa bộn nhỉ
Nước lũ đã đi qua vừa rút
Có người ra quét lá
Mùa lụt vừa mới đi qua
Ngoài kia bóng dáng một người quét sân
ĐN
Thursday, 9 November 2017
Tuesday, 31 October 2017
tham vien bao tang/ Ha Uy Di/Hawaii
Tuong Phat, India
Thăm viện bảo tàng
Viện bảo tàng gần nhà
Tranh thủ đi xem Hạ Uy Di
Các dụng cụ sinh hoạt
Vải, nữ trang áo choàng
Dụng cụ làm rừng hay bắt cá
Một hòn đảo xa xôi
Có phải Hạ Uy Di
Là như thế chăng, vắng nhiều lắm
Thiếu lớn nhất là âm nhạc
ĐN
31.10.2017
ngày lễ Reformationstag
Do vat o Hawaii
Saturday, 28 October 2017
Duy Thu que Ngo
Mãi nhớ quê em
Chưa về Duy Thu ta đã thương quê ngoại
Kìa Chợ Phú Đa một cõi rất nhớ mong
Google Map tạm chở ta đi khắp nẻo
Tìm dấu người xưa nơi mãnh đất ta yêu
ĐN
nhớ Ngộ và quê hương
Wednesday, 25 October 2017
Saturday, 21 October 2017
Tich xua
Sắc thu rừng Điệu Ngộ 2017
Tích xưa:
Sau khi Mạnh Thường Quân mất chức, Phùng Quán là người ở lại với Mạnh Thường Quân trong khi các kẻ khác đã bỏ đi hết. Thời gian sau, MTQ lại làm Tể tướng, các kẻ kia lại trở về.
MTQ thầm trách giận họ.
Phùng Quán khuyên MTQ về lí tất nhiên của các sự vật, quan hệ giữa con người cũng vậy. Chợ buổi sáng nhộn nhịp, buổi chiều tối vắng vẻ, vì buổi tối không còn gì đáng mua nữa cả. Xin MTQ bình tâm.
MTQ nghe có lí.
Các pháp vận hành theo quy luật của pháp! Cũng là ý đó thôi.
ĐỗNguyễn
Thursday, 12 October 2017
hegel 2
Con duong xua em di. To My hat
Beweisen heisst überhaupt nichts, als des Zusammenhangs und damit der Notwendigkeit bewusst weden
Wednesday, 11 October 2017
Dong ho Thuy Sy
Ngày đó
1.
Đêm ta lại nằm mơ
Không gặp bạn bè, như lần trước
Gặp em quá muộn màng
2.
Mua đồng hồ Thụy sỹ
Hôm nay tìm mua pin cho nó
Xám viền đỏ sắc màu
3.
Thứ bảy sách Flomarkt
Mua được nhiều sách ngành kiến trúc
Gặp đồng nghiệp Anton
4.
Nét chữ Đồng Tuệ đẹp
Thoát hẳn chữ khải chuẩn cứng ngắt
Thế mới là tuyệt đỉnh!
5.
Ta chỉ có hoài niệm
Kí ức của hai không mười bốn
Thật là đẹp không quên
ĐN
Monday, 9 October 2017
Giac mo
Đâu phải bởi mùa thu, Phú Quang, Ngoc Hạ
Giường đơn ấm cùng chăn
Giấc mơ lại về trong lúc ngủ
Chỉ còn nhớ một người
ĐN
Sunday, 8 October 2017
canh hoa diu dang
Suối mơ, Văn Cao, Ngọc Hạ hát
Mấy hôm rồi không vào
Vườn xưa bổng thấy cành hoa nào
Toả hương thơm ngạt ngào
ĐN
Monday, 25 September 2017
Thursday, 14 September 2017
Sunday, 10 September 2017
Đem thu bay khong trang sao
Vài dòng
Vài dòng thôi
Trước khi đi nghỉ
Khuya thứ bảy
Trở thành sáng chủ nhật
Bước ra balkon
Khí trời lạnh
Không thấy trăng
Có vài đám mây khuya
Bay lãng đãng
Một ngày thứ bảy
Nhận được nhiều kinh sách
Và nhiều sách từ Flohmarkt
Sắp tới
Có duyên với thơ
Đèn khuya làm bạn với mình
Sách kia ngần ấy tâm tình cùng ai
ĐN
Vài dòng thôi
Trước khi đi nghỉ
Khuya thứ bảy
Trở thành sáng chủ nhật
Bước ra balkon
Khí trời lạnh
Không thấy trăng
Có vài đám mây khuya
Bay lãng đãng
Một ngày thứ bảy
Nhận được nhiều kinh sách
Và nhiều sách từ Flohmarkt
Sắp tới
Có duyên với thơ
Đèn khuya làm bạn với mình
Sách kia ngần ấy tâm tình cùng ai
ĐN
Thursday, 7 September 2017
Giac mo buoi chieu
Mơ
Chim bay chim bay
Từng đàn
Xa xa một chiếc cần cẩu còn xoay
Các mái nhà màu đỏ
Sáng và sạch gọn gàng
của khu nhà
thuộc wohngebiet
Giấc mơ
Về cuộc gặp với hai ông bạn
người bản xứ
Cùng nhau hút tẩu thuốc pipe
Giấc mơ
Hiếm có
Các chi tiết
Ống pipe
Màu thuốc
Có vài chi tiết ông bạn chèo thuyền
Còn nhớ lại
Thôi,
Hôm nay sẽ uống cà phê trỡ lại
Có một pháp,
anh chàng vẫn thương
Nhưng,
đó là một pháp
trong cuộc đời vạn pháp!
Đúng không?
ĐN
Chim bay chim bay
Từng đàn
Xa xa một chiếc cần cẩu còn xoay
Các mái nhà màu đỏ
Sáng và sạch gọn gàng
của khu nhà
thuộc wohngebiet
Giấc mơ
Về cuộc gặp với hai ông bạn
người bản xứ
Cùng nhau hút tẩu thuốc pipe
Giấc mơ
Hiếm có
Các chi tiết
Ống pipe
Màu thuốc
Có vài chi tiết ông bạn chèo thuyền
Còn nhớ lại
Thôi,
Hôm nay sẽ uống cà phê trỡ lại
Có một pháp,
anh chàng vẫn thương
Nhưng,
đó là một pháp
trong cuộc đời vạn pháp!
Đúng không?
ĐN
Tuesday, 5 September 2017
Khong he biet
Nhiều năm ta không về
Chính ngay thời gian ấy
Em sinh ra
Em lớn lên
Em vào đại học
Cả thời gian đó
Ta không hề biết!
ĐN
nhớ về Ngộ
Chính ngay thời gian ấy
Em sinh ra
Em lớn lên
Em vào đại học
Cả thời gian đó
Ta không hề biết!
ĐN
nhớ về Ngộ
Wednesday, 30 August 2017
Hoi dap Wednesday
Hỏi:
Kính thưa chú,
Chúc chú nhiều sức khỏe. Con xin hỏi chú về sự cô đơn:
Một ngày vừa rồi khi con thường trọn vẹn biết mình thì như là con thấy tính không, một lúc sau thì trong tâm tự nhiên thấy một cảm giác như nỗi buồn và một cảm giác như cô đơn, nhưng không phải là buồn và cô đơn mà con từng biết trong cuộc sống trước kia. Sự cô đơn này nó rất mênh mông, lẻ loi, thăm thẳm, như lọt vào một hố sâu, như hạt bụi trong khoảng không. Sau đó một cảm giác nhẹ nhàng, lãng đãng len lỏi trong tâm. Như vậy là sao hả chú?
Thực sự con không biết đây có thể xem là câu hỏi hay là đang trình pháp gì đó với chú không. Vì hiện tại con cũng không có nhu cầu hỏi hay biết nhiều lắm. Chú tùy duyên mà trả lời vậy. Hehe
Cảm ơn chú
Đáp:
Thày đã đi về Ý, xin trả lời cho bạn.
1.
Bạn viết: "một cảm giác như cô đơn"
Cô đơn là 1 trạng thái của con người, bạn không nên quan trọng hóa nó quá. Ai không có lúc cô đơn?
Cô đơn lọt vào hố sâu à. Bạn leo ra cách nào? :)
Bạn ghi nhận thế là tốt lắm!
Thân mến
ĐỗNguyễn
Kính thưa chú,
Chúc chú nhiều sức khỏe. Con xin hỏi chú về sự cô đơn:
Một ngày vừa rồi khi con thường trọn vẹn biết mình thì như là con thấy tính không, một lúc sau thì trong tâm tự nhiên thấy một cảm giác như nỗi buồn và một cảm giác như cô đơn, nhưng không phải là buồn và cô đơn mà con từng biết trong cuộc sống trước kia. Sự cô đơn này nó rất mênh mông, lẻ loi, thăm thẳm, như lọt vào một hố sâu, như hạt bụi trong khoảng không. Sau đó một cảm giác nhẹ nhàng, lãng đãng len lỏi trong tâm. Như vậy là sao hả chú?
Thực sự con không biết đây có thể xem là câu hỏi hay là đang trình pháp gì đó với chú không. Vì hiện tại con cũng không có nhu cầu hỏi hay biết nhiều lắm. Chú tùy duyên mà trả lời vậy. Hehe
Cảm ơn chú
Đáp:
Thày đã đi về Ý, xin trả lời cho bạn.
1.
Bạn viết: "một cảm giác như cô đơn"
Cô đơn là 1 trạng thái của con người, bạn không nên quan trọng hóa nó quá. Ai không có lúc cô đơn?
Cô đơn lọt vào hố sâu à. Bạn leo ra cách nào? :)
Bạn ghi nhận thế là tốt lắm!
Thân mến
ĐỗNguyễn
Tuesday, 29 August 2017
Chuyen ngan
Sommernachtstraum
Giấc mơ
Chuyện cực ngắn
Trước khi tỉnh dậy, anh ta trải qua một giấc mơ đẹp nhất.
Cùng một cô gái mà anh qúy mến dể thương quen biết, thế mà
chính lúc anh ta nhận ra rằng, có vài khó khăn giũa anh ta và cô ấy;
ngay lúc anh thấy bế tắc, thì chính cô bé lại mạnh mẻ mời anh ta
đi vào quán cà phê và sà vào vai anh, làm như cô bé nếu không mạnh mẽ
như thế thì không thể.
Giấc mơ đẹp!
ĐN
Thursday, 24 August 2017
Doan khuc tang Ngo
Vẫn có em bên đời
Chiên hai lát cá hồi
Chế biến món nước mắm chanh ớt
Kí ức về lung linh
Tuesday, 15 August 2017
Trai Man Chua xua
Mận
Mận
Cô bé mồ côi
Sống ở Chùa xưa
Sư Bà trồng mận
Nở đẹp màu hồng
Cô bé thèm mận,
Trái mận hồng hồng
Có ba sợi râu
Ước gì ăn được!
Mỗi ngày học về
Lang thang trong vườn
Bức một sợi râu
Trái mận hấp dẫn!
Hết râu để bức,
Chỉ còn mận kia
Bé bức để ăn
Mận ơi ngon quá!
Sư Bà biết được
Phạt đánh cô bé,
Nghe kể chuyện mận,
Càng thương số phận!
ĐỗNguyễn
Tuesday, 15.8.2017
Tuesday
1.
Buồn ngủ
Tai nghe chuông nhà thờ
Láng giềng
Mới bảy giờ tối!
2.
Anh bạn Minh và Bổn
Cả hai đều ra đi
Đám tang của Minh biết muộn
Không đi được!
Hình bạn bè gởi
Về đám tang
Thấy các bạn thân có mặt
Tiếc không về được!
ĐN
Buồn ngủ
Tai nghe chuông nhà thờ
Láng giềng
Mới bảy giờ tối!
2.
Anh bạn Minh và Bổn
Cả hai đều ra đi
Đám tang của Minh biết muộn
Không đi được!
Hình bạn bè gởi
Về đám tang
Thấy các bạn thân có mặt
Tiếc không về được!
ĐN
Wednesday, 9 August 2017
1.
Trời đã sáng và đẹp
Các cần cẩu xa xa vươn lên trời cao
Một đêm bình lặng đã trôi qua,
2.
Hôm qua, một anh bạn trên net mất mẹ
Mẹ anh đã ra đi nhẹ nhàng
Bà cụ đã sống rất thọ
Ôi, ái biệt ly khổ!
.
3.
Mỗi sáng
Được gặp các bạn
Đàm luận triết lí phật giáo
Rất hay!
4.
Mỗi khi đọc được gì hay,
Ta vẫn giới thiệu cho em,
Vì em ít thời gian hơn ta
ĐN
Sunday, 6 August 2017
Thang 8
..khi nào thăm Cửa Đại ngắm Thu Bồn quê em?
1.
Mùa hè
Nắng Balkon
Bình an!
2.
Trên tường em cười tươi
Bên giờ ta học cổ ngữ
Kỉ niệm một thời xa!
3.
Vui thay những ngày đầu tháng..
Thứ bảy đi Flohmarkt
Mua những cuốn sách hay!
4.
Tháng tám mùa hè đến rồi!
Lâu quá chưa ra biển!
Mong sao!
ĐN
6. August 2017
Tuesday, 25 July 2017
Balkon nhin ve huong Ngo
Balkon
Chiều ngắm mây bay xa trên đồi,
Khí trời bổng mát hơn hôm trước
Bí tất mang vào cho bớt lạnh,
Quay vào một lát tiếng mưa rơi !
ĐN
Tuesday, 25.July 2017
Friday, 21 July 2017
Vuon xua Ngo be
Nhớ vườn cũ
Ta về thăm
Thăm cây cà chua
Thuở nhỏ Ngộ nằm nghịch ngợm
Hái cà chua bằng ngón chân
Thăm trái măng cụt cô bé làm
Bằng đất sét
Vì lỡ ăn măng cụt thiệt mất rồi
Ta thăm cái giếng
Em trèo xuống lượm quả lêkima
Ôi bao câu chuyện
Trong khu vườn của em!
ĐỗNguyễn
Friday
21.July 2017
Wednesday, 5 July 2017
Tho thi hao Tagore, bai 35, Gitanjali
Đi ra Flohmarkt, tìm thấy một cuốn thơ của Tagore đã cũ..
Nhân duyên này, dán một bài thơ tiếng Anh của ông và nhân đó tìm hiểu ý của Tagore qua việc dịch sang tiếng Việt và tiếng Đức.
ĐN
Gitanjali 35
By Rabindranath Tagore
Where the mind is without fear and the head is held high;
Where knowledge is free;
Where the world has not been broken up into fragments by narrow domestic walls;
Where words come out from the depth of truth;
Where tireless striving stretches its arms towards perfection;
Where the clear stream of reason has not lost its way into the dreary desert sand of dead habit;
Where the mind is led forward by thee into ever-widening thought and action
Into that heaven of freedom, my Father, let my country awake
Việt dịch/ ĐN:
Nơi tâm không sợ hãi và đầu ngẫng cao;
Nơi hiểu biết thì miễn phí;
Nơi mà thế giới đã không bị chia thành các mảnh bởi những bức tường nhà nhỏ hẹp;
Nơi các lời xuất phát từ sự sâu xa của sự thật;
Nơi nỗ lực không mệt mỏi kéo dài cánh tay của nó hướng đến sự hoàn hảo;
Nơi dòng chảy tinh khiết của lý trí đã không bị lạc vào cát sa mạc ảm đạm của thói quen khô chết;
Nơi mà tâm dẫn bạn đi theo ý nghĩ và hành động ngày càng mở rộng
Vào thiên đàng của tự do, Cha của tôi ơi, hãy để đất nước tôi tỉnh giấc
Bản tiếng Đức/ ĐN duyệt
Wo der Geist ohne Furcht ist und der Kopf hoch gehalten wird;
Wo Wissen frei ist;
Wo die Welt nicht durch kleine Hausmauern in Bruchstücke zerlegt worden ist;
Wo Worte aus der Tiefe der Wahrheit kommen;
Wo unermüdliches Streben seine Arme zur Vollkommenheit streckt;
Wo der klare Strom der Vernunft nicht in den trostlosen Wüstensand der toten Gewohnheit gelangt ist;
Wo der Geist von dir in ein immer größeres Denken und Handeln geführt wird
In diesen Himmel der Freiheit, mein Vater, laß mein Land erwachen
Wednesday, 5 July 2017
Đỗ Nguyễn
Sunday, 2 July 2017
Tong quat ve tho Haiku
Gioi thieu
Ve tho Haiku co mot so bai co gia tri.. Nam Giao, Vĩnh Sính
Moi xem them mot bai ve thơ Haiku trên mạng (1)
Thơ Haiku
Thơ Haiku là gì ?
Haiku âm theo lối chữ Kanji ( gốc chữ Nho) là bài cú , có nghĩa là câu nói để trình bày . Chữ "hai" nghĩa là "bài" , trong tiếng Hán Việt có nghĩa "phường tuồng" , chữ "ku" là "cú" hay "câu". Haiku là loại thơ độc đáo , rất thịnh hành của Nhật Bản và là loại thơ ngắn nhất trên thế giới.
Hình thức thơ Haiku
Một bài thơ theo thể thơ Haiku có ba giòng, giòng đầu và giòng cuối mỗi giòng có năm âm, ôm lấy giòng giữa có bảy âm, có dạng 5-7-5, tổng cộng 17 âm. Tiếng Nhật Bản đa âm, nên mỗi giòng có thể có một, hai, ba chữ hay nhiều hơn. Haiku có biến thể là 5-7-6 hay 5-8-5, lên 18 âm trọn bài. Tiếng Việt đơn âm , nên mỗi chữ là một âm . Không cần vần điệu , nhưng thơ Haiku là sự kết hợp giữa màu sắc, âm thanh, tượng hình có chọn lọc. Thoạt nhìn chỉ là một bài thơ ngắn gọn, nhưng người thơ đã dẫn dắt chúng ta đi qua một khu vườn chữ nghĩa nhỏ hẹp để thênh thang bước vào một cõi tư duy vô cùng bát ngát, một chân trời sáng tạo rộng mở mà người đọc cần có một sự tưởng tượng dồi dào phong phú .
Ngày nay thơ Haiku thoáng hơn nhiều, không gò bó số chữ trong mỗi câu (tổng cộng trên dưới 17 âm hay chữ), không nhất thiết phải chấm, phết hoặc chấm phết tuỳ tiện (không cần phải ở cuối câu), không cần đặt tựa, không bắt buộc phải có từ của mùa . Chỉ giữ lại hình thức 3 câu , và được đưa vào những từ ngữ chải chuốt, những ẩn dụ của cái hữu hạn và vô hạn ...
Nội dung thơ Haiku
Về nội dung có luật cơ bản sau : không mô tả cảm xúc, chủ yếu ghi lại sự việc xảy ra trước mắt. Vì số chữ bị giới hạn trong 17 âm nên thơ Haiku thường chỉ diển tả một sự kiện xảy ra ngay lúc đó, ở thì hiện tại. Sự kiện này có thể liên kết hai ý nghĩ, hay hai ý tưởng khác nhau mà ít khi người ta nghĩ đến cùng một lúc.
Ôi những hạt sương ( sự kiện hiện tại)
Trân châu từng hạt (ý nghĩ thứ 1)
Hiện hình cố hương (ý nghĩ thứ 2)
Một bài Haiku Nhật luôn tuân thủ hai nguyên lý tối thiểu, đó là Mùa và Tính Tương Quan Hai Hình Ảnh.Trong thơ bắt buộc phải có “Kigo” (quý ngữ) nghĩa là từ miêu tả mùa ( không dùng từ xuân, hạ, thu, đông nhưng dùng các từ như hoa anh đào, cành khô, lá vàng ,tuyết trắng ... để chỉ các mùa), và diễn tả một hình ảnh lớn (vũ trụ) tương xứng với một hình ảnh nhỏ (đời thường).
Tiếng ve kêu râm ran ( tiếng ve kêu chỉ mùa hạ)
Như tan vào trong than trong đá
Ôi, sao tĩnh lặng quá!
lặng yên qua mấy từng không (hình ảnh vũ trụ)
lời ve (hình ảnh nhỏ)
gõ thấu vào lòng đá xanh.
Ðọc thơ Haiku, ta cảm được vị trí đứng ở ngoài sự kiện của tác giả. Tác giả dường như chỉ chia sẻ với người đọc một sự kiện đã quan sát được.
Cỏ hoang trong đồng ruộng
Dẫy xong bỏ tại chỗ
Phân bón!
Nhưng người đọc vẫn có thể nghiệm được tình cảm của tác giả, một tình cảm nhè nhẹ, bàng bạc trong cả bài thơ, nói lên niềm vui sống hay sự cô đơn, đôi khi cũng nêu ra điểm tác giả thắc mắc về cuộc đời của con người: ngắn ngủi, phù du, trước sự vĩnh hằng của thiên nhiên.
Thế giới này như giọt sương kia
Có lẽ là một giọt sương
Tuy nhiên, tuy nhiên...
Thơ có xu hướng gợi ý hay ám chỉ bóng gió nhẹ nhàng. Thông thường trong thơ đưa ra hai hình ảnh : một hình ảnh trừu tượng sống động và linh hoạt, một hình ảnh cụ thể ghi dấu thời gian và nơi chốn.
Trăng soi (hình ảnh trừu tượng)
Một bầy ốc nhỏ (hình ảnh cụ thể)
Khóc than đáy nồi (nơi chốn cụ thể)
Nhà thơ không giải thích hay luận về sự liên kết giữa hai hình ảnh nầy, chỉ diễn tả sự vật theo bản chất tự nhiên của nó . Người làm thơ phải tự đặt mình như một đứa trẻ lúc nào cũng có cảm giác bỡ ngỡ , lạ lùng khi tiếp xúc lần đầu tiên với ngoại giới . Một bài thơ Haiku hay là làm sống lại những gì đã chôn sâu trong ký ức và đưa ra những cảm giác sâu sắc, tế nhị, để tự nó khơi lại trí tưởng tượng và mơ ước của người đọc để người đọc tự suy diễn , cảm nhận .
Chim vân tước bay
Thở ra sương gió
Dẫm lướt từng mây
Thơ như một bài kệ, sàn lọc từng chữ, không dư mà cũng không thiếu, cốt sao nói đến chính cái đang là - "đương hạ tức thị". Nắm bắt thực tại ngay trong giây phút nẩy mầm, cái đang xảy ra lắm khi chuyên chở cả một vũ trụ thu gọn vào trong thời điểm đó, tiểu thế giới và đại thế giới hòa nhập vào nhau. Một diễn tiến trước mắt khiến ta liên tưởng đến một hiện tượng hay biến cố nào đó trong một kinh nghiệm sống của riêng mình . Kỷ xảo của thơ Haiku là giản lược tối đa chữ nghĩa trong thơ để vận dụng trí tưởng tượng nơi người đọc . Không có người làm thơ và kẻ đọc thơ, cả hai nhập làm một, đồng âm cộng hưởng trong niềm rung cảm với sự liên hệ rất tinh tế và hài hòa của đất trời.
Thiền tính trong thơ Haiku
Thơ Thiền Nhật ban đầu cũng chịu ảnh hưởng từ Trung Hoa, nhưng đến thế kỷ thứ 17 thì thể thơ Haiku ra đời và phát triển mạnh vào thế kỷ thứ 19 . Người sáng lập loại thơ này là Thiền sư Matsuo Basho. Năm 1680, Matsuo Basho viết bài thơ Con ếch theo lối Haikai - một thể thơ mới (theo thời điểm bấy giờ) mở đường cho thể thơ Haiku. Các bài Haikai của Basho ngắn, gọn, súc tích từ chữ đến ý, cho thấy cái nhìn và thi tứ của nhà thơ. Những người ngưỡng mộ ông tập làm lối thơ này, và thể Haikai trở nên nghiêm trang, chín chắn hơn để dần trở thành thể Haiku, nói lên cái quan niệm và ghi lại sự rung động của nhà thơ.
Sau Basho, có ba nhà thơ lớn của Haiku lần lượt xuất hiện, hợp cùng Basho thành tứ trụ của Haiku Nhật Bản: Basho , Buson , Issa , Shiki .
Trong bài thơ sau đây của Basho :
Fu ru i ke ya Trong ao xưa
Ka e ru to bi ko mu Con ếch nhảy vào
Mi zu no o to Tiếng nước khua
Chỉ vài chữ : một ao nước, một con ếch nhảy , một tiếng nước khua động cũng diễn tả đầy đủ cảnh vật , không dông dài , nhưng luôn luôn đủ ý .Như vậy Haiku là một loại thơ thiền , một cách tập nhìn sự vật đơn giản , thuần khiết . Ðây là một quan hệ biện chứng giữa tĩnh và động như một công án, một tiếng chuông chiêu mộ thức tỉnh ngộ tính con người.
Thi nhân ghi lại những bức xúc của mình đối với sự biến chuyển trong khoảnh khắc của thiên nhiên đang xảy ra trước mặt. Vạn vật thì thường trôi nổi lững lờ đối với kẻ vô tình mà thật ra đang nói muôn triệu điều trong từng mỗi khắc giây. Người không thấy, người không nghe vì người không chịu nhìn, chịu nghe hay người không biết đấy thôi.
Haiku là một nghệ thuật tổng hợp tinh tế tuyệt vời giữa Phật giáo và Lão Giáo trong thế giới Thiền thi, giữa cụ thể và trừu tượng, giữa ẩn dụ và phân tích, giữa thiên nhiên vũ trụ và nội tâm con người . Vạn vật và vũ trụ đều có nguồn gốc từ Đạo, theo sự sinh hóa vô thường và kiếp người cũng chỉ là phù sinh hư ảo . Điều nói ra được thì hữu hạn, mà ý lại vô hạn . Ðiều mà thơ muốn mọi người lãnh hội chẳng phải là điều có thể nói được mà là những điều mà thơ chưa nói ra . Cái tiểu vương quốc của những con chữ gò bó chải chuốt bỗng vươn mình ảo hóa trở thành một vũ trụ siêu hình .Trong thơ Haiku có sự dung hợp giữa Thiền và Thơ, vì thơ biểu lộ tình cảm và thơ có thể tải đạo . Thơ Haiku đi từ một sự vật cụ thể thật nhỏ nhoi tầm thường để dẫn dắt người đọc đi vào cõi mênh mông bát ngát không hình tượng , như một thiền sư đã nói : "Gom góp tất cả lời nói để hoàn thành một câu, vò cả đại thiên thế giới thành một hạt bụi" . Nhà thơ William Blake cũng có nói : “Cả vũ trụ trong một hạt cát (a world in a grain of sand)”.
"Từ trong hạt bụi ngu ngơ ấy
Mưa nắng vô thường sây sát nhau ."
Ðể cuối cùng người thơ đốn ngộ được :
"Từ trong hạt cát hằng sa đó
Vũ trụ Chân Như sáng nhiệm mầu ."
Mùa trong thơ Haiku
Phần lớn thơ Haiku của các thi sĩ Nhật Bản nói về bốn mùa xuân, hạ, thu, đông , tuy không nêu ra hẳn tên mùa trong năm. Họ thường dùng những chữ liên quan đến mùa xuân, như “tan tuyết,” lúc “hoa mận nở, hoa đào nở,” hoặc đến lúc “ngỗng trời quay về.” Về mùa thu, họ hay tả “đêm thanh, trời vằng vặc đầy sao,” lúc “bóng nai thoáng qua rừng,” hay là “chuồn chuồn bay chập chờn,” khi người ta “gặt lúa.” Mùa hè có “muỗi,” có tiếng “ve ra rả,” hoặc tiếng “quạt,” hay tiếng “suối róc rách.” Mùa đông không tránh được cảnh “tuyết rơi” trong hay ven “rừng thông,” “gấu,” hay là tiếng củi hoặc than nổ tí tách trong “lò sưởi.” Và hình như các tác giả Haiku người Nhật không bao giờ nói đến lũ lụt, động đất, bệnh tật ... những cái không tốt của thiên nhiên.
Miura Chora diễn tả mùa hạ đang reo trên muôn ngàn nhánh cây, với lá xanh thắm sáng rực trong nắng vàng :
Vàng phai
cùng với ngàn xanh
nghe ngày tháng cũ theo quanh nẻo về.
Một bài Haiku khác của Yosa Buson ghi lại sự liên tưởng của ông giữa lá non và thác đổ. Hãy tưởng tượng đến vào một buổi trưa nào đó lúc mới đầu hè, xuân đã qua nhưng lá vẫn còn đang trong thời kỳ nẩy nở, trời chưa nóng lắm. Nhìn nụ xanh Buson mường tượng đến nguồn nước đã nuôi nấng cỏ cây, tắm mát con người trong tháng hạ. Ngay lúc đó, sự liên tưởng đến nước khiến ông nghe văng vẳng tiếng thác đổ gần đâu đó. Nước thác vẫn rơi đều nơi chốn ấy tự ngàn xưa nhưng hình như đối với Buson cho đến giây phút này ông mới vừa nghe hoặc nghe tiếng thác rõ hơn. Đây chỉ là một trong nhiều cách diễn dịch:
ụ non lá nhú lên mầm
thác reo
nghe thoảng xa gần đâu đây.
Mùa hạ thì có tiếng ve kêu như được đá hấp thụ và người đọc cảm thấy không gian xung quanh thật tĩnh lặng:
Tiếng ve kêu râm ran
Như tan vào trong than trong đá
Ôi, sao tĩnh lặng quá!
Mùa thu khi ăn được một quả hồng thì cảm thấy như nghe được tiếng đại hồng chung của chùa Horiu:
Ta ăn một quả hồng
Vọng đâu tiếng chuông đồng Hô-riu
Lòng phấn chấn phiêu diêu!!!
Hình ảnh mẹ trong thơ Haiku
Ngoài những đề tài về thiên nhiên, Haiku còn có đề tài về mẹ. Hình ảnh nầy thường thấy ở trong thơ Issa và Basho. Mẹ là thơ. Mẹ và thơ mãi khắn khít nhau như hình với bóng. Hình ảnh mẹ càng cần cù, mộc mạc bao nhiêu lại càng nên thơ bấy nhiêu. Trong ngôn ngữ thi ca của thế giới, dân tộc nào cũng có những vần thơ chứa chan tình mẹ. Mẹ hiển hiện trên đường về, trên từng ngõ hồn sâu kín. Mẹ là chất liệu kết tinh của tất cả những thiên anh hùng ca, những đại sử thi, những trường thiên tình sử và cả trong những vần thơ Haiku đơn sơ, thâm thúy Hình ảnh mẹ trong thơ Haiku lại càng bát ngát, phiêu diêu hơn bao giờ hết:
Đến đây nào, với tôi
cùng chơi đùa chim sẻ
không còn mẹ trên đời.
Issa
Mẹ yêu ơi !
mỗi khi nhìn thấy biển
khi thấy biển khơi.
Issa
Tóc mẹ còn đây
tan trong lệ nóng
sương mùa thu bay.
Issa
Hoa trong thơ Haiku
Qua bài "Cánh hoa anh đào muôn thuở" Busho đề cập đến vấn đề vô thường:
Nhiều chuyện
làm nhớ lại
Hoa anh đào
Hoa anh đào đối với người Nhật có ý nghĩa đặc biệt, nhìn hoa anh đào khiến người ta chợt nhớ bao mùa hoa anh đào trong quá khứ. Còn nói theo ngôn ngữ nhà Phật, hoa anh đào là biểu tượng của sự vô thường trong cuộc đời.
Một bài thơ Haiku khác nói lên hình ảnh của một loài hoa mong manh, mang kiếp sống phù du, giữa màn đêm sương khói huyền ảo, âm thầm lặng lẽ hé nở những cánh mỏng lụa là, như đem sức sống cuộn trào vào từng hơi thở của người thưởng ngoạn, phải chăng đó là một niềm hy vọng bí ẩn, khó hiểu của một loài hoa kiều diễm mang tên Nữ Hoàng Đêm . Người thơ hình như đã nhập thân vào loài hoa khêu gợi đó, để từ đó chiêm nghiệm được quá trình nở hoa " sinh sinh hoá hóa" từ bên trong : khởi đầu một cành cây trơ … đến một cái gì nhu nhú dưới phiến lá …. rồi xuất hiện một nụ trắng ngà … từ đó nụ tung cánh bung xòe ra… và cuối cùng là hoa mãn khai toàn vẹn với những cánh xinh xắn nõn nà tỏa hương thơm ngan ngát …
Nữ Hoàng Đêm mảnh khảnh
Trong âm thầm hé nụ phô hoa
Niềm tin yêu huyền bí
Với màu sắc trắng nhợt nhạt biểu tượng cho sự ngây thơ khờ dại, loài hoa đêm lộng lẫy khát khao nầy đang chờ đợi khai hoa nở nhụy…. đâu biết rằng kiếp sống tạm bợ ngắn ngủi đó sẽ đến hồi chấm dứt khi bình minh chợt sáng, chẳng khác gì bóng câu qua cửa sổ, giọt sương hư ảo trên cành … Những thi ảnh trữ tình, những biểu tượng thâm thúy, những tín hiệu bàng hoàng đã thu hút và dẫn dắt tâm tư người đọc vào một thế giới cao siêu để tự suy niệm về kiếp nhân sinh của con người quanh quẩn trong cuộc sống phù trầm đầy oan khiên nghiệp chướng nầy .
Cánh hoa mềm êm ái
Thơm ngát, cầm mình giữa bụi gai
Trước bình minh chịu chết
Nắng đã lên , những giọt sương mai lãng đãng, đang vắt vẻo trên nhành cây đọt lá . Những cánh hoa tàn úa đang rơi rụng . Một loài hoa đã chết và một ngày mới bắt đầu . Những hình ảnh của loài hoa mờ ảo đó , không sôi động mà vẫn lặng lẽ ẩn mật trong tâm cảm và tư duy của người thưởng ngoạn , để rồi đem lại những cảm giác lạ lẫm đột nhiên bỡ ngỡ, bàng hoàng, sững sốt giữa níu kéo và hoài nghi …
" Ta ngỡ mất mà chưa đành đánh mất
Bởi mùi hương ngự trị cánh hoa tàn ….."
Một bài thơ Haiku, một bông hoa quỳnh nở rồi tàn, một kiếp phù sinh, một giấc mộng hoàng lương…
" Phù bào khoảnh khắc vòng sinh diệt
Sớm nở đêm tàn tựa kiếp hoa…"
Cái sân khấu tuồng đời đầy hỷ nộ ái ố, tham sân si đã hạ màn theo những cánh hoa tàn ,để lại ngơ ngẩn , bần thần và luyến tiếc …
--
(1)
http://www.oldcottage.net/thohaiku/thohaiku.html
Den ben nay mat troi ben kia
Đèn
Ánh đèn trắng trên bàn
Chiếu xuống bên người ngồi trong chiều
Bên em năm giờ sáng
ĐN
Chu nhat 2 July 2017
Kigo trong thơ Haiku
Gioi thieu:
Gioi thieu mot bai hay ve Kigo trong tho Haiku.
Trich tu trang (1)
Toi thay bai nay co gia tri
Kigo trong thơ Haiku Japan
Thạc sĩ Hà thị Hải
1. Đặt vấn đề
Thể thơ haiku Nhật Bản được Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayasi Issa làm cho trở thành tuyệt mĩ là một trong những thể thơ ngắn nhất thế giới, gồm mười bảy âm tiết, có thể được viết trên giấy thành những bức họa theo nghệ thuật thư pháp hoặc đề vào những bức tranh cổ. Nhưng điểm quan trọng là tâm thái người làm thơ và những gì ẩn chứa phía sau sự tối giản đến kinh ngạc của mười bảy âm tiết ấy. Việc thưởng thức thơ haiku đòi hỏi người đọc phải liên tưởng, tưởng tượng, phải hòa nhập được vào dòng sông đang trôi chảy của đời sống và cùng sáng tạo với người nghệ sĩ thì mới có thể cảm nhận được giá trị thẩm mĩ và ý nghĩa của đời sống ẩn chìm trong đó. Một trong những tín hiệu thẩm mĩ độc đáo của thơ haiku là kigo. Hiểu được kigo và cách dùng kigo sẽ giúp người đọc có khả năng thâm nhập được vào thế giới sâu thẳm của thơ haiku.
2. Cách dùng kigo (quý ngữ) trong thơ haiku
2.1. Kigo và những quy ước trong cách dùng
Kigo là quý ngữ, là từ chỉ mùatrong thơ haiku Nhật Bản. Nói cách khác, tất cả những từ ngữ liên hệ đến mùa đều được gọi là kigo. Thời gian được miêu tả trong thơ haiku chủ yếu là thời gian hiện tại, thời gian sinh hoạt.
Đó là thời gian của vũ trụ tự nhiên: nước chảy, mây trôi, hoa nở, chim hót, ngọn đồi phủ sương... Đó là thời gian xảy ra sự kiện hoặc thời gian hoạt động của sự vật và con người trong thời điểm hiện tại. Và thời gian hiện tại đó luôn gắn với bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông của xứ sở mặt trời mọc. Haiku là thể thơ không đòi hỏi chặt chẽ về vần, niêm luật, bằng trắc hay đối nhau, nhưng nó có những quy định riêng về kigo: Một bài haiku phải có kigo (phải có từ chỉ mùa).
Yếu tố "mùa" là yếu tố khá quan trọng trong thơ haiku. Các nhà thơ haiku hầu như lúc nào cũng đưa mùa vào thơ. Bốn mùa qua đi đều để lại cho haiku một dấu chân nào đấy, có khi là bóng hoa anh đào, có khi là những cơn mưa hay chiếc lá phong chuyển sang sắc đỏ...
Khí hậu của Nhật Bản khá phức tạp. Nhiệt độ trung bình hàng năm của Nhật Bản khoảng 14,6 độ c, tuy nhiên, khí hậu ở các vùng khác nhau khá rõ do hình dáng thon dài của nước Nhật. Ngay ngày nở của hoa anh đào ở các vùng khác nhau của Nhật Bản cũng khác nhau. Hoa anh đào là quốc hoa, là biểu tượng của nước Nhật, nở vào mùa xuân, có màu trắng và màu phớt hồng, rất đẹp. Khi nở rộ, hoa anh đào giống như áng mây trắng hoặc hồng, bồng bềnh trong sương khói, rất lãng mạn, chỉ cần một cơn gió thổi qua là những cánh hoa thi nhau rụng xuống, phủ kín mặt đất tạo nên một thảm hoa tuyệt đẹp. Hoa anh đào rơi ngay khi còn tươi rói, một cái đẹp mong manh, gợi cảm. Người Nhật thường chờ đón ngày hoa anh đào nở với một niềm háo hức lạ lùng và vô tuyến truyền hình thường đưa tin ngày bông hoa anh đào đầu tiên nở ở các vùng trên đất nước. Mặc dù vậy, khí hậu của Nhật vẫn có bốn mùa rõ rệt: xuân. hạ, thu, đông. Mùa đông ở Nhật khá lạnh và trên thực tế thì cái lạnh bắt đầu ngay từ cuối mùa thu. Ở Tokyo, mùa đông thỉnh thoảng tuyết có rơi nhưng không nhiều. Mùa hè ở Nhật khá nóng và ẩm, mưa nhiều. Mùa xuân và mùa thu là hai mùa đẹp nhất trong năm. Nhật Bản cũng có rất nhiều lễ hội gắn với các mùa trong năm: lễ hội mừng năm mới, lễ tiết phân, lễ tảo mộ, lễ hội vu lan, lễ hội mùa hạ, lễ hội nông nghiệp, lễ hội Tanahata...
Các nhà thơ haiku luôn có ý thức đưa mùa vào thơ. Trong thơ haiku, yếu tố mùa rất quan trọng tuy với thời gian nó bớt đi sự quan trọng quyết định của buổi đầu. Bài haiku thường có một chữ liên quan đến mùa ở ngay câu đầu hoặc một câu nào đó trong bài. Nó có thể suy diễn từ khí hậu nóng, lạnh, ngày dài hay ngắn, thời tiết, địa lý đến tên chùa chiền, quần áo, lễ hội, các loại cây cối, chim chóc, hoa cỏ...
Cách dùng kigo có những quy ước nhất định, những quy ước này giúp nhà thơ tiết kiệm được chữ dùng trong việc thông tin trong thơ mà vẫn chuyển tải được đúng ý đồ của người nghệ sĩ sáng tạo tới bạn đọc. Khi nói "trăng" (tsuki) thông thường thì phải hiểu là trăng tròn mùa thu, nếu không, phải nói cụ thể, chính xác hơn nữa như oborozuki (trăng mờ mùa xuân) hay kangetsu (trăng lạnh mùa đông). Nói "hoa" (hana) phải hiểu là hoa anh đào, chỉ mùa xuân; nói “gặt lúa mạch” để chỉ mùa đông... Ví dụ:
Một đám mây hoa
Chuông đền Ueno vang vọng
Hay đền Asakusa.
Khi đọc bài thơ này của Basho, người Nhật hiểu ngay ông đang nhắc đến tiếng chuông mùa xuân, vì “một đám mây hoa” (Hana no kumo) chỉ hoa anh đào đang nở rộ, đó là biểu tượng của mùa xuân, là “từ chỉ mùa” – một quy ước của người Nhật trong sáng tạo thơ haiku.
Những từ chỉ mùa rất thông dụng trong thơ haiku. Trong thơ ca Nhật Bản nói chung, kể cả tanka hay haiku, thiên nhiên đóng một vai trò rất quan trọng, như một kỹ thuật, như một quy ước trong sáng tác, trong nghệ thuật giữa tác phẩm với bạn đọc. Nắm được quy ước này người đọc mới có thể hiểu được bài thơ. Lòng yêu thích thiên nhiên và sự nhạy cảm của người Nhật đối với thời tiết là một điều dễ nhận thấy trong tâm hồn người Nhật. Những quy ước về mùa có làm phong phú nội dung thơ ca nhưng một mặt nó cũng tạo ra những câu thúc và khuôn sáo.
Những từ chỉ mùa rất phong phú trong thơ haiku. Sau đây là một số loài động vật và thực vật thông dụng trong thơ haiku, vì haiku còn nói đến nhiều giống chỉ sống ở vùng ôn đới và đôi khi chỉ sống ở Nhật Bản:
Mùa xuân (tháng giêng đến tháng ba âm lịch):
Thực vật: Mơ (ume), lan tím (sumire), anh đào (Sakura), hải đường (tsubaki), lê (nashi), tử đằng (fuji), đào (momo), liễu (yanagi), hồng vàng (yamabuki), ngải cứu (yomogi), cây đuôi chồn (waraki).
Động vật: Chim oanh (uguisu), cú (tsubakurame), sơn ca (hibari), ong (hachi), ếch (kawazu), tằm (kaiko), bướm (cho), sẻ con (susume no ko).
Vụ mùa: Ngày dài (hinaga), đêm 88 (hachijuhachiya) để chỉ mùa hái trà, tiết xuân (haruoshimu), vãn xuân (yukuharu).
Thiên văn - Địa lý: trăng mờ sương (oborozuki), tuyết tan (yukidoke), sương lam (kasumi).
Sinh hoạt - hội hè: Bánh nếp bọc lá (kusamochi), diều (tako), vỡ ruộng (hatakeuchi), ngắt lá chè (chatsumi)...
Mùa hè (tháng tư đến tháng sáu âm lịch):
Thực vật: Hoa xương bồ (ayame), hoa diên vĩ (kakitssubata), hoa sơn chi (kuchinasshi), sen (hachisu), kim tước chi (hahakigi), mẫu đơn (botan), hoa lưu ly thảo (wasurenagusa).
Động vật: Chim bói cá (u), gà nước (kuina), cò (sagi), cuốc (hototogisu), đom đóm (hotaru), kiến (ari), muỗi (ka), cá hương (ayu), ve (semu), cá vàng (kingyo).
Vụ mùa: Đêm vắn (mijikayo), đầu mùa mưa hè (nyuubai), cái nóng (atsusa), kề thu (akichikashi).
Thiên văn - Địa lý: Sấm (kaminari), mống trời (niji), mưa rào (yuudachi).
Sinh hoạt - hội hè: Gặt lúa mạch (mugikari), áo mát (yukata), mùng (kaya), cấy lúa (taue)...
Mùa thu (tháng bảy đến tháng chín âm lịch):
Thực vật: Lau sậy (ashi), cúc (kiku), chuối (basho), lau già (ogi), quả hồng (kaki).
Động vật: Chuồn chuồn (kagero), dế mèn (kirigirisu), dế tùng (matsumushi), chim cút (uzura), ngỗng trời (kari), chim "cát" (sandpiper, shigi), hải âu (miyakodori), gà gô (yamadori).
Vụ mùa: Đêm lạnh (yosamu), hơi nóng còn sót (zansho), trung thu (chuushuu).
Thiên văn - Địa lý: Sông ngân (Amanokawa), chớp nháng (inazuma), trăng (tsuki), sương thu (kiri), tiếng thu (aki no koe).
Sinh hoạt - Hội hè: Thất tịch (tanabata), chày (kinuta), ngắm trăng (tsukimi), tảo mộ (hakamairi), được mùa (honen)...
Mùa đông (tháng mười đến tháng chạp âm lịch):
Thực vật: Tầm gửi (yodoriki), lá rụng (ochiba), hành (negi), thủy tiên (suisen), sơn trà (sazanka), củ cải trắng (daikon).
Động vật: Vịt trời (kamo), chim óc cau (chidori), hạc (tsuru), thỏ (usagi), sò (kaki), một loại chim cú (mimizuku).
Vụ mùa: Lập đông (ritto), cuối năm (toshi no kure), trừ tịch (oomisoka).
Thiên văn - Địa lý: Đồng khô lá (kareno), sương giá (shimo), lửa ma trơi (kitsunebi), tuyết đầu mùa (hatsuyuki).
Sinh hoạt - Hội hè: Tất (tabi), ho (seki), nệm (futon), đốt than (sumiyaki), quét bồ hóng (susuhaki)...
2.2. Các nhà thơ haiku có khi dùng kigo qua các hình ảnh chỉ mùa, cũng có khi dùng kigo trực tiếp - nói rõ là mùa nào
Mùa trong thơ haiku có khi thể hiện qua các hình ảnh chỉ mùa:
Fuku tabi ni
cho no inaoru
yanagi bana.
(Trên cành liễu nghiêng/con bướm đổi chỗ/mỗi lần gió lên). (M. Basho)
Basho đã dùng kigo: cho (bướm), yanagi (liễu) để chỉ mùa xuân. Dùng kigo như vậy giúp người đọc có thể thấy được không gian mùa xuân tươi đẹp, lãng mạn với hình ảnh rực rỡ sắc màu của bướm bên cành liễu đang đâm chồi nảy lộc xanh mướt trong làn gió nhẹ và tiết xuân mát dịu… đúng như ý đồ sáng tạo của người nghệ sĩ mà ông vẫn tiết kiệm được từ ngữ, không cần phải miêu tả cụ thể.
Bài thơ sau dùng kigo chỉ mùa đông qua hình ảnh tuyết (yuki):
Futari mishi
yuki wa kotoshi mo
furikeru ka.
(Đã rơi năm nào/ tuyết mà ta ngắm/ bây giờ lại rơi). (M. Basho)
Nhiều bài thơ nói đến tháng, qua đó ta thấy mùa:
Mưa tháng năm rơi
Và những con ếch
Bơi đến cửa nhà tôi. (Sanpu)
Trong bài thơ này Sanpu miêu tả cơn mưa mùa hè.
Ở những ví dụ trên, tác giả đã dùng kigo qua các hình ảnh chỉ mùa, còn nhiều bài thơ khác tác giả dùng kigo trực tiếp - nói rõ là mùa nào. Ví dụ:
Mùa xuân đến rồi
vô danh ngọn đồi ấy
sáng nay khoác áo sương mù. (M. Basho)
hay: Gió mùa thu
làm sao em bé hái
hoa tím bây giờ! (K. Issa)
Thạc sĩ Hà thị Hải
1. Đặt vấn đề
Thể thơ haiku Nhật Bản được Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayasi Issa làm cho trở thành tuyệt mĩ là một trong những thể thơ ngắn nhất thế giới, gồm mười bảy âm tiết, có thể được viết trên giấy thành những bức họa theo nghệ thuật thư pháp hoặc đề vào những bức tranh cổ. Nhưng điểm quan trọng là tâm thái người làm thơ và những gì ẩn chứa phía sau sự tối giản đến kinh ngạc của mười bảy âm tiết ấy. Việc thưởng thức thơ haiku đòi hỏi người đọc phải liên tưởng, tưởng tượng, phải hòa nhập được vào dòng sông đang trôi chảy của đời sống và cùng sáng tạo với người nghệ sĩ thì mới có thể cảm nhận được giá trị thẩm mĩ và ý nghĩa của đời sống ẩn chìm trong đó. Một trong những tín hiệu thẩm mĩ độc đáo của thơ haiku là kigo. Hiểu được kigo và cách dùng kigo sẽ giúp người đọc có khả năng thâm nhập được vào thế giới sâu thẳm của thơ haiku.
2. Cách dùng kigo (quý ngữ) trong thơ haiku
2.1. Kigo và những quy ước trong cách dùng
Kigo là quý ngữ, là từ chỉ mùatrong thơ haiku Nhật Bản. Nói cách khác, tất cả những từ ngữ liên hệ đến mùa đều được gọi là kigo. Thời gian được miêu tả trong thơ haiku chủ yếu là thời gian hiện tại, thời gian sinh hoạt.
Đó là thời gian của vũ trụ tự nhiên: nước chảy, mây trôi, hoa nở, chim hót, ngọn đồi phủ sương... Đó là thời gian xảy ra sự kiện hoặc thời gian hoạt động của sự vật và con người trong thời điểm hiện tại. Và thời gian hiện tại đó luôn gắn với bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông của xứ sở mặt trời mọc. Haiku là thể thơ không đòi hỏi chặt chẽ về vần, niêm luật, bằng trắc hay đối nhau, nhưng nó có những quy định riêng về kigo: Một bài haiku phải có kigo (phải có từ chỉ mùa).
Yếu tố "mùa" là yếu tố khá quan trọng trong thơ haiku. Các nhà thơ haiku hầu như lúc nào cũng đưa mùa vào thơ. Bốn mùa qua đi đều để lại cho haiku một dấu chân nào đấy, có khi là bóng hoa anh đào, có khi là những cơn mưa hay chiếc lá phong chuyển sang sắc đỏ...
Khí hậu của Nhật Bản khá phức tạp. Nhiệt độ trung bình hàng năm của Nhật Bản khoảng 14,6 độ c, tuy nhiên, khí hậu ở các vùng khác nhau khá rõ do hình dáng thon dài của nước Nhật. Ngay ngày nở của hoa anh đào ở các vùng khác nhau của Nhật Bản cũng khác nhau. Hoa anh đào là quốc hoa, là biểu tượng của nước Nhật, nở vào mùa xuân, có màu trắng và màu phớt hồng, rất đẹp. Khi nở rộ, hoa anh đào giống như áng mây trắng hoặc hồng, bồng bềnh trong sương khói, rất lãng mạn, chỉ cần một cơn gió thổi qua là những cánh hoa thi nhau rụng xuống, phủ kín mặt đất tạo nên một thảm hoa tuyệt đẹp. Hoa anh đào rơi ngay khi còn tươi rói, một cái đẹp mong manh, gợi cảm. Người Nhật thường chờ đón ngày hoa anh đào nở với một niềm háo hức lạ lùng và vô tuyến truyền hình thường đưa tin ngày bông hoa anh đào đầu tiên nở ở các vùng trên đất nước. Mặc dù vậy, khí hậu của Nhật vẫn có bốn mùa rõ rệt: xuân. hạ, thu, đông. Mùa đông ở Nhật khá lạnh và trên thực tế thì cái lạnh bắt đầu ngay từ cuối mùa thu. Ở Tokyo, mùa đông thỉnh thoảng tuyết có rơi nhưng không nhiều. Mùa hè ở Nhật khá nóng và ẩm, mưa nhiều. Mùa xuân và mùa thu là hai mùa đẹp nhất trong năm. Nhật Bản cũng có rất nhiều lễ hội gắn với các mùa trong năm: lễ hội mừng năm mới, lễ tiết phân, lễ tảo mộ, lễ hội vu lan, lễ hội mùa hạ, lễ hội nông nghiệp, lễ hội Tanahata...
Các nhà thơ haiku luôn có ý thức đưa mùa vào thơ. Trong thơ haiku, yếu tố mùa rất quan trọng tuy với thời gian nó bớt đi sự quan trọng quyết định của buổi đầu. Bài haiku thường có một chữ liên quan đến mùa ở ngay câu đầu hoặc một câu nào đó trong bài. Nó có thể suy diễn từ khí hậu nóng, lạnh, ngày dài hay ngắn, thời tiết, địa lý đến tên chùa chiền, quần áo, lễ hội, các loại cây cối, chim chóc, hoa cỏ...
Cách dùng kigo có những quy ước nhất định, những quy ước này giúp nhà thơ tiết kiệm được chữ dùng trong việc thông tin trong thơ mà vẫn chuyển tải được đúng ý đồ của người nghệ sĩ sáng tạo tới bạn đọc. Khi nói "trăng" (tsuki) thông thường thì phải hiểu là trăng tròn mùa thu, nếu không, phải nói cụ thể, chính xác hơn nữa như oborozuki (trăng mờ mùa xuân) hay kangetsu (trăng lạnh mùa đông). Nói "hoa" (hana) phải hiểu là hoa anh đào, chỉ mùa xuân; nói “gặt lúa mạch” để chỉ mùa đông... Ví dụ:
Một đám mây hoa
Chuông đền Ueno vang vọng
Hay đền Asakusa.
Khi đọc bài thơ này của Basho, người Nhật hiểu ngay ông đang nhắc đến tiếng chuông mùa xuân, vì “một đám mây hoa” (Hana no kumo) chỉ hoa anh đào đang nở rộ, đó là biểu tượng của mùa xuân, là “từ chỉ mùa” – một quy ước của người Nhật trong sáng tạo thơ haiku.
Những từ chỉ mùa rất thông dụng trong thơ haiku. Trong thơ ca Nhật Bản nói chung, kể cả tanka hay haiku, thiên nhiên đóng một vai trò rất quan trọng, như một kỹ thuật, như một quy ước trong sáng tác, trong nghệ thuật giữa tác phẩm với bạn đọc. Nắm được quy ước này người đọc mới có thể hiểu được bài thơ. Lòng yêu thích thiên nhiên và sự nhạy cảm của người Nhật đối với thời tiết là một điều dễ nhận thấy trong tâm hồn người Nhật. Những quy ước về mùa có làm phong phú nội dung thơ ca nhưng một mặt nó cũng tạo ra những câu thúc và khuôn sáo.
Những từ chỉ mùa rất phong phú trong thơ haiku. Sau đây là một số loài động vật và thực vật thông dụng trong thơ haiku, vì haiku còn nói đến nhiều giống chỉ sống ở vùng ôn đới và đôi khi chỉ sống ở Nhật Bản:
Mùa xuân (tháng giêng đến tháng ba âm lịch):
Thực vật: Mơ (ume), lan tím (sumire), anh đào (Sakura), hải đường (tsubaki), lê (nashi), tử đằng (fuji), đào (momo), liễu (yanagi), hồng vàng (yamabuki), ngải cứu (yomogi), cây đuôi chồn (waraki).
Động vật: Chim oanh (uguisu), cú (tsubakurame), sơn ca (hibari), ong (hachi), ếch (kawazu), tằm (kaiko), bướm (cho), sẻ con (susume no ko).
Vụ mùa: Ngày dài (hinaga), đêm 88 (hachijuhachiya) để chỉ mùa hái trà, tiết xuân (haruoshimu), vãn xuân (yukuharu).
Thiên văn - Địa lý: trăng mờ sương (oborozuki), tuyết tan (yukidoke), sương lam (kasumi).
Sinh hoạt - hội hè: Bánh nếp bọc lá (kusamochi), diều (tako), vỡ ruộng (hatakeuchi), ngắt lá chè (chatsumi)...
Mùa hè (tháng tư đến tháng sáu âm lịch):
Thực vật: Hoa xương bồ (ayame), hoa diên vĩ (kakitssubata), hoa sơn chi (kuchinasshi), sen (hachisu), kim tước chi (hahakigi), mẫu đơn (botan), hoa lưu ly thảo (wasurenagusa).
Động vật: Chim bói cá (u), gà nước (kuina), cò (sagi), cuốc (hototogisu), đom đóm (hotaru), kiến (ari), muỗi (ka), cá hương (ayu), ve (semu), cá vàng (kingyo).
Vụ mùa: Đêm vắn (mijikayo), đầu mùa mưa hè (nyuubai), cái nóng (atsusa), kề thu (akichikashi).
Thiên văn - Địa lý: Sấm (kaminari), mống trời (niji), mưa rào (yuudachi).
Sinh hoạt - hội hè: Gặt lúa mạch (mugikari), áo mát (yukata), mùng (kaya), cấy lúa (taue)...
Mùa thu (tháng bảy đến tháng chín âm lịch):
Thực vật: Lau sậy (ashi), cúc (kiku), chuối (basho), lau già (ogi), quả hồng (kaki).
Động vật: Chuồn chuồn (kagero), dế mèn (kirigirisu), dế tùng (matsumushi), chim cút (uzura), ngỗng trời (kari), chim "cát" (sandpiper, shigi), hải âu (miyakodori), gà gô (yamadori).
Vụ mùa: Đêm lạnh (yosamu), hơi nóng còn sót (zansho), trung thu (chuushuu).
Thiên văn - Địa lý: Sông ngân (Amanokawa), chớp nháng (inazuma), trăng (tsuki), sương thu (kiri), tiếng thu (aki no koe).
Sinh hoạt - Hội hè: Thất tịch (tanabata), chày (kinuta), ngắm trăng (tsukimi), tảo mộ (hakamairi), được mùa (honen)...
Mùa đông (tháng mười đến tháng chạp âm lịch):
Thực vật: Tầm gửi (yodoriki), lá rụng (ochiba), hành (negi), thủy tiên (suisen), sơn trà (sazanka), củ cải trắng (daikon).
Động vật: Vịt trời (kamo), chim óc cau (chidori), hạc (tsuru), thỏ (usagi), sò (kaki), một loại chim cú (mimizuku).
Vụ mùa: Lập đông (ritto), cuối năm (toshi no kure), trừ tịch (oomisoka).
Thiên văn - Địa lý: Đồng khô lá (kareno), sương giá (shimo), lửa ma trơi (kitsunebi), tuyết đầu mùa (hatsuyuki).
Sinh hoạt - Hội hè: Tất (tabi), ho (seki), nệm (futon), đốt than (sumiyaki), quét bồ hóng (susuhaki)...
2.2. Các nhà thơ haiku có khi dùng kigo qua các hình ảnh chỉ mùa, cũng có khi dùng kigo trực tiếp - nói rõ là mùa nào
Mùa trong thơ haiku có khi thể hiện qua các hình ảnh chỉ mùa:
Fuku tabi ni
cho no inaoru
yanagi bana.
(Trên cành liễu nghiêng/con bướm đổi chỗ/mỗi lần gió lên). (M. Basho)
Basho đã dùng kigo: cho (bướm), yanagi (liễu) để chỉ mùa xuân. Dùng kigo như vậy giúp người đọc có thể thấy được không gian mùa xuân tươi đẹp, lãng mạn với hình ảnh rực rỡ sắc màu của bướm bên cành liễu đang đâm chồi nảy lộc xanh mướt trong làn gió nhẹ và tiết xuân mát dịu… đúng như ý đồ sáng tạo của người nghệ sĩ mà ông vẫn tiết kiệm được từ ngữ, không cần phải miêu tả cụ thể.
Bài thơ sau dùng kigo chỉ mùa đông qua hình ảnh tuyết (yuki):
Futari mishi
yuki wa kotoshi mo
furikeru ka.
(Đã rơi năm nào/ tuyết mà ta ngắm/ bây giờ lại rơi). (M. Basho)
Nhiều bài thơ nói đến tháng, qua đó ta thấy mùa:
Mưa tháng năm rơi
Và những con ếch
Bơi đến cửa nhà tôi. (Sanpu)
Trong bài thơ này Sanpu miêu tả cơn mưa mùa hè.
Ở những ví dụ trên, tác giả đã dùng kigo qua các hình ảnh chỉ mùa, còn nhiều bài thơ khác tác giả dùng kigo trực tiếp - nói rõ là mùa nào. Ví dụ:
Mùa xuân đến rồi
vô danh ngọn đồi ấy
sáng nay khoác áo sương mù. (M. Basho)
hay: Gió mùa thu
làm sao em bé hái
hoa tím bây giờ! (K. Issa)
2.3. Kigo thường nằm ở câu đầu bài haiku
Hototogisu
naku ya goshaku no
ayamegusa.
(Vang tiếng chim cu/ và lá diên vĩ/ vươn năm bộ cao). (M. Basho)
Hototogisu là chim cu (chim đỗ quyên), loài chim báo hiệu mùa hè. Đây là quý ngữ chỉ mùa hè.
Tuy nhiên, cũng có một số bài kigo nằm ở câu hai hoặc câu ba:
Moro moro no
kokoro yanagi ni
makasubeshi.
(Trao cho cây liễu/ mọi niềm ước vọng/ mọi điều chán chê). (M. Basho)
Kigo: cây liễu (yanagi) nằm ở câu thơ thứ hai chỉ mùa xuân - loại này ít gặp nhất.
Na batakeni
hanami gao
naru suzume kana
(Trong đồng rau cải/ trăm mắt ngắm hoa/ một bầy chim sẻ). (M. Basho)
Kigo: chim sẻ (suzume) ở câu ba chỉ mùa xuân.
Có khi kigo ở cả câu hai và câu ba:
Fuku tabi ni
chô no inaoru
yanagi kana.
(Trên cành liễu nghiêng/ con bướm đổi chỗ/ mỗi lần gió lên). (M. Basho)
Kigo: bướm (chô) nằm ở câu hai và liễu (yanagi) nằm ở câu ba đều chỉ mùa xuân.
3. Kết luận
Cách dùng kigo có những quy ước nhất định, những quy ước này giúp nhà thơ tiết kiệm được chữ dùng trong việc thông tin trong thơ mà vẫn chuyển tải được đúng ý đồ của người nghệ sĩ sáng tạo tới bạn đọc, đồng thời giúp người đọc hiểu được điều tác giả muốn nói, thấy được giá trị thẩm mĩ sâu sắc của bài thơ. Các nhà thơ haiku có khi dùng kigo qua các hình ảnh chỉ mùa, cũng có khi dùng kigo trực tiếp - nói rõ là mùa nào. Thông thường kigo nằm ở câu đầu bài haiku, có khi nằm ở câu hai hoặc câu ba. Ở Nhật, cách dùng kigo đã trở thành quy luật và hầu như các tuyển tập thơ haiku đều quen sắp xếp các bài thơ theo từng mùa. Các hình ảnh về mùa cho thấy quan hệ của con người với thiên nhiên, với đất trời, tạo thành một thể thống nhất chặt chẽ, tương thông, lí tưởng: thời gian – không gian – con người.
--
(1)
http://www.utb.edu.vn/index.php/2013-05-25-09-33-10/thongbaotintucsukien/555-ca-ch-da-ng-kigo-qua-nga-trong-th-haiku-nha-t-ba-n
naku ya goshaku no
ayamegusa.
(Vang tiếng chim cu/ và lá diên vĩ/ vươn năm bộ cao). (M. Basho)
Hototogisu là chim cu (chim đỗ quyên), loài chim báo hiệu mùa hè. Đây là quý ngữ chỉ mùa hè.
Tuy nhiên, cũng có một số bài kigo nằm ở câu hai hoặc câu ba:
Moro moro no
kokoro yanagi ni
makasubeshi.
(Trao cho cây liễu/ mọi niềm ước vọng/ mọi điều chán chê). (M. Basho)
Kigo: cây liễu (yanagi) nằm ở câu thơ thứ hai chỉ mùa xuân - loại này ít gặp nhất.
Na batakeni
hanami gao
naru suzume kana
(Trong đồng rau cải/ trăm mắt ngắm hoa/ một bầy chim sẻ). (M. Basho)
Kigo: chim sẻ (suzume) ở câu ba chỉ mùa xuân.
Có khi kigo ở cả câu hai và câu ba:
Fuku tabi ni
chô no inaoru
yanagi kana.
(Trên cành liễu nghiêng/ con bướm đổi chỗ/ mỗi lần gió lên). (M. Basho)
Kigo: bướm (chô) nằm ở câu hai và liễu (yanagi) nằm ở câu ba đều chỉ mùa xuân.
3. Kết luận
Cách dùng kigo có những quy ước nhất định, những quy ước này giúp nhà thơ tiết kiệm được chữ dùng trong việc thông tin trong thơ mà vẫn chuyển tải được đúng ý đồ của người nghệ sĩ sáng tạo tới bạn đọc, đồng thời giúp người đọc hiểu được điều tác giả muốn nói, thấy được giá trị thẩm mĩ sâu sắc của bài thơ. Các nhà thơ haiku có khi dùng kigo qua các hình ảnh chỉ mùa, cũng có khi dùng kigo trực tiếp - nói rõ là mùa nào. Thông thường kigo nằm ở câu đầu bài haiku, có khi nằm ở câu hai hoặc câu ba. Ở Nhật, cách dùng kigo đã trở thành quy luật và hầu như các tuyển tập thơ haiku đều quen sắp xếp các bài thơ theo từng mùa. Các hình ảnh về mùa cho thấy quan hệ của con người với thiên nhiên, với đất trời, tạo thành một thể thống nhất chặt chẽ, tương thông, lí tưởng: thời gian – không gian – con người.
--
(1)
http://www.utb.edu.vn/index.php/2013-05-25-09-33-10/thongbaotintucsukien/555-ca-ch-da-ng-kigo-qua-nga-trong-th-haiku-nha-t-ba-n
Subscribe to:
Posts (Atom)