Bùi Giáng viết về thơ
Tuệ Sỹ
Bùi Giáng (1969)
1/ Tuệ Sỹ một vị sư. Ông viết văn quá nghiêm
túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng
bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ
rằng linh hồn kia còn ẩn một
nguồn
thơ thâm viễn u u...
Tuệ Sỹ - Tác phẩm của Dominique de Miscault
Một
bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông:
Thâm
dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
2/
Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ
tuyệt. Tôi đề nghị với ông nên nhờ Ni cô Trí Hải tiếp
giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như
thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết:
Thâm
dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty
Và
xin ông chả nên lấy thế làm bực mình.
Nhưng
ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao
giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi
phàm? Một bài thơ "Không đề" của ông đủ khiến ta khiếp
vía mất ăn mất ngủ:
Đôi
mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
3/
Mới nghe bốn câu thôi, tôi đã cảm thấy lạnh buốt linh
hồn, tê cóng cả cõi dạ.
Từ
núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn
Tôi
hoảng vía đề nghị: Đại Sư nên gác bỏ viết sách đi. Và
làm thơ tiếp nhiều cho, Nếu không thì nền thi ca Việt
mất đi một thiên tài quá lớn.
Ông
đáp: - Để về hỏi lại cô Trí Hải xem có đúng như lời
thế chăng.
4/
Đôi
mắt ướt tuổi vàng
Khung trời
Hội cũ
Xin
xuống giòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang
trọng dị thường của hoài niệm. Hoài niệm gì? - Cung
trời hội cũ.
Một
hội đạp thanh? Một hội nao nức? - "Giờ nao nức của một
thời trẻ dại?".
Đôi
mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ...
5/
Mở lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng
chiêm niệm. Đầy đủ hết mọi yếu tố bát ngát: một cung
trời xán lạn bao la, một hội cũ xao xuyến, một tuổi
vàng long lanh... Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của hiện
tại.
Nhưng
mạch thơ đi ngầm. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ
không cần tới một hình dung từ nào cả, vẫn nói được
hết mọi người đều "phải nói" với mọi người "muốn nghe"
với riêng mình "không thiết chi chuyện nói".
Người
thi sĩ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác
thường đó. Họ nói tất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất
nhiều mà chung quy hồ như chẳng thấy gì hết. Họ nói
cho họ, mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi
người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ
nghe hay chẳng nghe. Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường
như chẳng phi giống lối vui buồn của chúng ta. Do đó
chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc hết cả (par
manque de justice interne).
Trong
một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta
tưởng họ kiêu bạc. Trong lúc mọi người đang gào khóc
giữa đám tang, họ phiêu nhiên đi qua, trông có vẻ như
mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta tưởng họ tàn nhẫn thô
bạo.
6/
Vua Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái
độ Nguyễn Du: "Trẫm dùng người, không phân biệt kẻ Nam
kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm trọng dụng (...). Cớ sao
khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế?".
Ông
vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri
thói thường thiên hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị
di thần kia cứ miên man như nằm trong cõi mộng thần
di, hồn dịch!
Vua
đã ban cho chan hòa mưa móc, lộc trọng quyền cao đặc
ân thâm hậu như thế, cớ sao Liệp Hộ chưa vừa lòng, vẫn
chưa cứ thả mộng chạy lang thang về chân trời hướng
khác.
Đáp:
Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu.
Đôi
mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
7/
Đôi mắt ướt? Đôi mắt của ai? Vì sao ướt? Vì lệ trào,
hay là vì quá long lanh?
Thi
sĩ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng
phóng nhiệm cho thơ.
Tha
hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi
nhân ướt trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ.
Hoặc là đôi mắt giai nhân nào long lanh dịu mật như
nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ bất
tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng?
"Áo
màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang"
8/
Áo nào màu xanh? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái
Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã
ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối?
Thi sĩ
Bùi Giáng
Tôi
nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở
Lào. Cha mẹ ông kiều cư trên đất Thượng Lào Trung
Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng cũng trở về Sài Gòn tới
chùa viếng ông đem quà cho ông một đôi dép riêng biệt,
một tấm khăn quàng riêng tây.
Đôi
mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
Áo màu xanh
Không xanh mãi
Trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ.
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ?
Mình
là thân Bồ-tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao
bỗng nhiên một phút vội vã lại dám làm thân du thủ?
Dám gác bỏ kệ kinh? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể
chuyện trăng tàn?
9/
Phải có nhìn thấy khuôn mặt khắc khổ chân tu của Tuệ
Sỹ, mới kinh hoàng vì lời nói thăm thẳm đơn sơ nọ. Lời
nói như ngân lên từ đáy sâu linh hồn tiền kiếp, từ một
quê hương trên thượng du bao la rừng núi gió sương
canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.
Từ
núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Mối
tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt
muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ
không gột rửa.
Từ
núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
10/
Ta tưởng như nghe ra "cao cách điệu" bi hùng của một
Liệp Hộ, một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong
cung bậc Nietzche.
Thi
nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn? Ngồi trên một
đỉnh đá? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu
trăng xanh tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải?
Đỉnh
đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và
biển. Đỉnh đá quy tụ về mọi hương màu trời mây rừng
rú. Hạt muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng
dương. Đó là cái bất tận của tâm tình dừng sững tại
giữa tuyết nguyệt phiêu du:
Cười
với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
11/
Một tiếng "buồn chăng" lơ lửng nửa như chất vấn, nửa
như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tâm thanh
đoạn trường:
Sen
tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Tiết
nhịp lời thơ lại biến đổi :
Đếm
tóc bạc
Tuổi đời
Chưa
Đủ
Bụi đường dài
Gót
Mỏi
Đi
Quanh
12/
Tiết điệu rạc rời như gót mỏi đi quanh. Một tuổi đời
chưa đủ? Một tuổi xuân chưa vừa? Một tuổi vàng sớm
chấm dứt? Một tuổi "đá" sớm từ giã mọi yêu thương?
Giờ
ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa
Ngược nước
Xuôi ngàn
Bài
thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đêm lữ thứ
khép mình trong bốn bức tường với nhạt nhòa ủ rũ ngục
tù.
Chỉ
một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ
Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương.
|
Bùi Giáng über Tuệ Sỹs Dichtung
Bùi Giáng (1969)
1/ Tuệ Sỹ ist ein Mönch. Er schreibt auf extrem
ernsthafte Weise, sein Wissen über buddhistische
Lehren ist tatsächlich immens. In seiner asketischen
Erscheinung hätte niemand vermutet, dass seine Seele
eine so tiefe und neblige Quelle der Dichtung birgt...
Tuệ
Sy - Werke von Dominique de Miscault
Eines Tages las er mir zwei Zeilen chinesischer Dichtung
vor:
Tiefe Nacht,
der Wind lässt den Schatten der Tätigkeit folgen
Gegenwärtig
wird nicht verstanden, die Blume fliegt vorbei
2/ Er bat mich, diese zwei Zeilen zu einem Vierzeiler zu
ergänzen. Ich schlug ihm vor, Schwester Trí Hải um
Hilfe zu bitten. Verlegen lehnte er ab und meinte, ich
solle nicht so scherzen. Also versuchte ich mich
einfach und fügte hinzu:
Tiefe Nacht, der Wind lässt den Schatten der
Tätigkeit folgen
Gegenwärtig
wird nicht verstanden, die Blume fliegt vorbei
Mit
schwermütigem Herzen und Tränen der Trauer
Beschämt
vor dem Ozean der Weisheit, da ich noch nicht
erlangt habe / Der Bambushain verwirrt wie Seide
Und bat ihn, sich darüber nicht aufzuregen.
Doch wer hätte gedacht, dass der verschlossene und
vorsichtige Mönch, der niemals Anhaftung kannte, in
sich eine so außergewöhnliche Quelle vietnamesischer
Dichtung birgt? Schon bei einem seiner Gedichte namens
„Ohne Titel“ schaudert es einen und man verliert den
Appetit und Schlaf:
Feuchte Augen, goldener Zeit, Horizont der alten Begegnung
Grünes Kleid, das auf einsamen Hügeln
nicht für immer grün bleibt
Plötzlich beim Eiltempo entdeckt man sich
selbst als Vagabund
Spät nachts Kerze anzünden, Geschichten
vom schwindenden Mond erzählen
3/ Nach nur vier Zeilen spürte ich bereits, wie meine
Seele kalt wurde und meine Eingeweide erstarrt sind.
Vom kalten Gebirge zum stillen Meer seit
uralters
Dieser Berg und jenes Salzkorn ist noch
nicht geschmolzen
Mit der Sonne an einem Tag lachen, wie
flüchtig
Heute Winter, morgen Sommer – wird es
traurig sein?
Graue Haare zählen, das Alter reicht noch
nicht
Langer staubiger Weg, müde Füße gehen im
Kreis
Jetzt zurückblicken, vier morsche Mauern
Die Quelle ist fern, gegen den Strom, dem
Fluss folgend
Ich war schockiert und schlug vor: Der Meister sollte
mit dem Schreiben von Büchern aufhören und weiter
fleißig dichten. Sonst würde die vietnamesische
Dichtung ein zu großes Talent verlieren.
Er antwortete: „Ich werde Schwester Trí Hải fragen, ob
es wirklich so ist, wie du sagst.“
4/
Feuchte Augen, goldene Zeit,
Horizont
die alte Begegnung
Bitte
lass mich diese Gedichtzeilen Absatz für Absatz
langsam und in Ruhe fließen
lassen. Sicherlich sieht man die ungewöhnliche Würde
der Erinnerung. Woran
erinnert man sich? - Der Horizont der alten Begegnung.
Eine Konferenzstampfung? Eine aufgeregte Konferenz? –
„Aufgeregte Stunde einer törichten Jugend?“
Feuchte Augen, goldene Zeit,
Horizont
die alte Begegnung...
5/ In die Worte geöffnet strömt die Quelle der Dichtung
direkt in das Zentrum eines Traumes der Meditation.
Vollkommen ausgestattet mit allen grenzenlosen
Faktoren: ein weiter Himmelshorizont, eine besorgte
alte Konferenz, glänzend goldene Zeit... Ein Paar
feuchte Augen voll Sehnsucht der Gegenwart.
Aber der Strom der Dichtung fließt unterirdisch. Der
geheime Rhythmus führt an. Der Dichter braucht kein
einziges Bildwort, und kann doch allen „müssend
Sprechenden“ zu allen „hörend Wollenenden“ und zu sich
selbst „nichts zu sagen Habenden“ alles sagen.
Solche herausragenden, transzendenten Dichter haben
normalerweise eine eigenartige Haltung. Sie sagen
wenig aber sehr viel. Sie sagen sehr viel aber am Ende
scheint alles verschwunden. Sie sprechen für sich,
aber wie für alle. Sie sprechen für alle aber kümmern
sich kaum darum, ob die Welt zuhört oder nicht. Ihre
Freude, ihre Trauer scheinen ganz anders als unsere
eigene Freude und Trauer. Daher tadeln wir sie auf
vollständig schräge Weise.
Während einer Feier fragen wir sie dies und das.
Gleichgültig und teilnahmslos schauen sie ins Leere,
da denken wir sie wären arrogant. Während alle weinend
mitten in einer Beerdigungszeremonie sind, gehen sie
vorbei, scheinbar lächelnd, niêm hoa vi tiếu (eine Art
spöttisches Grinsen). Da denken wir sie wären grausam
und grob.
6/ König Gia Long war einst sehr verwundert über Nguyễn
Du’s Haltung: „Ich heuere Personen an, ohne zwischen
Süd- und Nordmännern zu unterscheiden. Wer Talent hat,
den förder ich (...). Warum seid Ihr das ganze Jahr
über then traurig und wortkarg?“
Der König fand das sehr seltsam, aber sehr vernünftig,
ganz im Einklang mit dem Gewissen und den alltäglichen
Gepflogenheiten der Menschen. Er konnte nicht
verstehen, warum der große Geist wie in einem
Traumreich fernab geistig reiste!
Der König hatte ihm reichlich Gunst, Ehren und Macht
gewährt, warum war Liệp Hộ noch nicht zufrieden, warum
ließ er immer noch seine Träume frei umherstreifen zu
anderen Horizonten?
Antwort: Eben weil die Augen hier dies sahen aber jenes
suchten.
Feuchte Augen,
goldene Zeit,
Horizont der alten
Begegnung
7/ Feuchte Augen? Wessen Augen? Warum feucht? Vor
Freudentränen oder vor übermäßigem Glänzen?
Der Dichter sagt es nicht klar. Das ist, um der Dichtung
einen leeren, schweigenden Raum der Beauftragung zu
geben.
Wir sind völlig frei, zwei drei Möglichkeiten zu denken.
Entweder sind es die feuchten Augen des Dichters in
der Gegenwart, weil er sich nach einem alten Zeiten
Horizont sehnt. Oder es sind die funkelnden,
honigsüßen Augen einer Schönheit, die den Schatten
eines unvergleichlichen, alten Zeiten Horizont
widerspiegelt, den das gegenwärtige Selbst heutzutage
verloren hat, nicht wahr?
„Grünes Kleid, das auf einsamen Hügeln nicht für immer
grün bleibt“
8/ Welches grüne Kleid? Das indigofarbene Grün eines
Berg- oder Waldmädchens, das einst durch den Wald ging
und der Dichter hatte sie einmal angesehen und war
vernarrt?
Der Dichter Bùi Giáng
Ich sage nicht ganz falsch. Denn Tuệ Sỹ stammte einst
aus Laos. Seine Eltern lebten im zentralen Hochland
von Laos. Seine Mutter kam ab und zu nach Saigon in
den Tempel, um ihn zu besuchen und brachte ihm
spezielle Geschenke, ein Paar Sandalen oder ein
seidenes Schultertuch.
Feuchte Augen,
goldene Zeit,
Horizont der alten Begegnung
Grünes Kleid,
das auf
einsamen Hügeln
nicht für
immer grün bleibt
Plötzlich beim
Eiltempo entdeckt man sich selbst als Vagabund
Spät nachts
Kerze anzünden, Geschichten vom schwindenden Mond
erzählen
Mensch des Bodhisattva, das ganze Jahr Fasten und Sutras
rezitierend, wie kann man da plötzlich in einem
eiligen Moment einem Vagabund gleichen? Sutras
beiseite legen? Sich nachts zum Mondschein setzen und
Geschichten erzählen?
9/ Man muss das asketische Gesicht des Mönchs Tuệ Sỹ
gesehen haben, um durch diese tiefgründigen,
schlichten Worte erschreckt zu sein. Die Worte klingen
auf wie aus der Tiefe der Seele früherer Leben, von
einer weit entfernten Heimat in den hohen Bergen, wo
Nebelschwaden in der Dämmerung um die Berge streifen
und der Mond in kalten Nächten durch die Wipfel
zittert.
Vom kalten
Gebirge zum stillen Meer seit uralters
Dieser Berg
und jenes Salzkorn ist noch nicht geschmolzen
Mit der Sonne
an einem Tag lachen, wie flüchtig
Heute Winter,
morgen Sommer – wird es traurig sein?
Eine weitherzige Liebe durch das stille Meer und
Gebirge. Ein Salzkorn ist noch nicht geschmolzen. Ein
verborgener Knoten der eigenen Seele, trostlos,
ungewaschen.
Vom kalten
Gebirge zum stillen Meer seit uralters
Dieser Berg
und jenes Salzkorn ist noch nicht geschmolzen
10/ Wir meinen, die erhabene Tragik eines Liệp Hộ,
Nerval oder des düstersten Tons der Skala Nietzches zu
hören.
Wie oft hat der Dichter beim schwindenden Mond gesessen?
Auf einem Berggipfel? Umhüllt von heiligen Wäldern,
die sich weit in alle Richtungen erstrecken mit der
grünen Mondfarbe, die bis zum fernen Horizont der
Weiten Meere reicht?
Der Berggipfel und das Salzkorn sind zwei Orte, wo die
Kristalle von Bergen und Meer zusammenlaufen. Der
Berggipfel sammelt alle Düfte von Himmel, Wolken, Wald
und Wildnis. Das Salzkorn birgt den großen Geschmack
der Tiefe des Ozeans. Das ist die Grenzenlosigkeit der
Stimmung, erstarrten mitten im schwebenden
Schnee-Mond:
Mit der Sonne
an einem Tag lachen, wie flüchtig
Heute Winter,
morgen Sommer - wird es traurig sein?
11/ Ein „wird es traurig sein“ schwebt fragend und
klagend, führt eine lange Strecke der seelischen
Melodie:
Lotus
verblüht, Chrysantheme blüht wieder auf
Langer Kummer,
kurz Winter zu Frühling
Graue Haare
zählen, das Alter reicht noch nicht
Langer
staubiger Weg, müde Füße gehen im Kreis
Der Rhythmus des Gedichts verändert sich wieder:
Graue Haare zählen
Das Alter
noch nicht genug
Langer staubiger Weg
Müde
Füße
Im Kreis
gehen
12/ Der Rhythmus zerfällt wie müde Füße, die im Kreis
gehen. Ein noch nicht ausreichendes Alter? Ein noch
nicht passendes jugendliches Alter? Ein früh endendes
Goldalter? Ein „steinernes“ Alter, das früh aller
Zuneigung Lebewohl sagt?
Jetzt zurückblicken, vier morsche Mauern
Die Quelle ist fern,
gegen den Strom,
dem Fluss folgend
Das Gedicht endet. Der unendliche Nachhall zieht sich in
die Nacht, wo der müde Wanderer sich zwischen vier
Wänden wiederfindet, verblasst, schäbig wie ein
Kerker.
Mit nur einem Gedicht überdeckt Tuệ Sỹ den ganzen
Horizont, von der klassischen chinesischen Dichtung
bis zur westlichen Postmoderne.
--
ĐN
tạm dịch sang tiếng đức từ (1)/ bản 28.11.2023
|